Tuesday, March 27, 2012

THẦM LẶNG:
                MỘT LOẠI NGÔN NGỮ
                                                Tống phước Hiến
   Nói đến ngôn-ngữ, thông thường người ta nghĩ ngay đến chữ viết hay lời nói. Nhưng với hoàn cảnh hiện nay, những người tỵ nạn Cộng sản chân chính còn dùng thái độ, hay hành động để phát biểu quan điểm và sự quyết tâm của mình. Hình thái ngôn ngữ đó được gọi là “ngôn ngữ thầm lặng”.
   Do ý thức và thái độ dấn thân của người xử dụng loại ngôn ngữ không âm thanh, không bút tự nầy mà sinh ra hai dạng thức tạm gọi là im lặng và thầm lặng. Im lặng và Thầm lặng không thể bị ngộ nhận là tương đồng. Đây là “ngôn ngữ” riêng của hai nhóm người có cùng một tổ quốc, cùng một hoàn cảnh lịch sử, xã hội, môi trường, và nhất là có cùng một trách nhiệm. Nhưng vì quan điểm, và hoài bão trong cuộc sống khác nhau nên thái độ sống và nỗi ưu tư của họ thường trái nghịch nhau. Nhìn khái quát thì hai thái độ, hai cung cách ấy có vẻ giống nhau về ngoại mạo. Nhưng sự thực lại khác xa nhau về những gì thuộc giá trị làm người. Chân dung họ xin được tạm phác họa như sau: 
        A-/ IM LẶNG :
    Im lặng là thái độ của một loại người dửng dưng không hề quan tâm, không mảy may xúc động đến những sự kiện, những vấn đề có liên quan đến quê hương, đến cộng đồng tỵ nạn mà họ là một thành viên. Ðời sống của họ chỉ gói trọn vào tiền bạc, vật chất và hưởng thụ ! Những vấn đề như: Họ từ đâu, và tại sao đến đây ? Nghĩa vụ đối với Tổ Quốc, trách nhiệm đối với các thế hệ trước và sau họ như thế nào ? Chẳng bao giờ những điều ấy là nỗi suy tư của họ. Như cỏ đá, họ luôn đứng bên lề trách nhiệm. Loại người nầy thường có thái độ trịch thượng, khinh miệt những người chung quanh yếu kém hơn họ, họ thường dùng những lời lẽ khiếm nhã như: chuyện ruồi bu, bọn vô công rỗi nghề, hoặc họ dùng bất cứ hình dung từ vu khống, mạ lị nào đó để ám chỉ những người đang hy sinh nhập cuộc, dấn thân vận động cho lịch sử chuyển hóa hầu mang lại lẽ sống và quyền làm người cho đồng bào đang còn bị bọn Cộng sản thống trị (trong đó có thân nhân họ). Nhưng họ rất dễ dàng tay bắt mặt mừng, vui vẻ chuyện trò thân mật, đượm tình “đồng bào” khi một tổ chức hay một kẻ nào đó mà trước đây họ đã không tiếc lời miệt thị, nay tiếp cận với họ, hứa hẹn sẽ cho họ quyền lợi vật chất, hay địa vị xã hội, mà từ đó họ nghĩ rằng sẽ có thể khai thác cho những tư lợi riêng lẻ. Bạn không bao giờ thấy họ trong đám đông quần chúng, hưởng ứng đóng góp công sức, tiền bạc hầu có thêm điều kiện đẩy mạnh công cuộc đấu tranh vì lợi ích Dân tộc (trong đó có họ) nhanh chóng đến thành công. Ðây là loại người mà xã hội gọi là “phường giá áo túi cơm ”.
                   B-/ THẦM LẶNG:
    Ðặc tính chung của quần chúng là: “thầm lặng”, không thích bon chen! Có thể vì họ không có phương tiện như truyền thông, diễn đàn để chuyển tải quan điểm, ý thức, hay có thể họ không quen nói trước quần chúng, mà cũng có thể họ không có năng khiếu diễn giải những suy tư bằng ngòi bút. Và cũng bởi vì có thể họ rất dè dặt, họ sợ... mất lòng! Họ chỉ muốn có hòa khí tốt để tạo đoàn kết, hầu liên lập thế lực, vì vậy họ xuề xòa, dễ dãi, ưa “chín bỏ làm mười”. Do đó, tâm lý chung của giới thầm lặng là tìm kiếm và hội nhập với những người thường cùng có mối quan tâm, cùng có nỗi buồn vui, vinh nhục với Quê hương. Họ tự nguyện nhập cuộc dưới nhiều hình thức và không bao giờ so đo, tính toán thiệt hơn. Việc đóng góp vào công cuộc chung là mệnh lệnh của lương tâm, của luân lý và của lý trí. Họ có mặt ở nhiều nơi, chung vai với nhiều tổ chức, chung tay với nhiều cá nhân cùng có những trăn trở, những thao thức, và cùng có ý thức chung là mong thực hiện điều ước muốn, được tích cực đóng góp phần mình vào đại cuộc. Họ đến, rồi ra đi rất bình thường và nhẹ nhàng! Họ chẳng phiền trách hay phê bình ai đã nhân danh hoặc không nhân danh họ, họ cũng không quan ngại ai đã lợi dụng hoặc không lợi dụng họ. Họ tự biết phải làm gì, phải làm với ai trong trường hợp nào. Ðiểm đặc biệt nhất của họ là “thầm lặng !”.
            Vì “Thầm Lặng” là lực lượng không tên, nên ai cũng có thể nhân danh họ, ai cũng có quyền suy diễn họ là "thành phần cơ hữu" của tổ chức mình. Từ nhận định đó, những cá nhân, những tổ chức chính trị khi phác thảo kế hoạch hành động thì "Giới Thầm Lặng" luôn được dự liệu là lực lượng xung kích chủ yếu. Qua một vài sự việc thành công vì mục tiêu là công cuộc chung, họ cũng đã “thầm lặng” thông báo:
- Quý vị đáp ứng đúng nguyện vọng của chúng tôi, nên chúng tôi ủng hộ và hậu thuẫn Quý vị!.               
Nhưng nếu cũng chính những tổ chức, những cá nhân ấy lợi dụng sự chân tình của họ cho mục tiêu riêng tư, phi nghĩa thì lập tức họ cũng thầm lặng gởi tín hiệu cảnh cáo những cá nhân, tổ chức nầy hiểu rằng:
          -Chúng tôi đã biết, chúng tôi có khả năng nhận định, hãy trả lại cho chúng tôi những gì thuộc về chúng tôi!
Ðấy là lúc họ biểu tỏ lòng tự trọng, sự khiêm ái. Họ là vị quan tòa công minh, và tinh tế.
            Lực lượng “Thầm Lặng” nầy, vì sự thành bại của đại cuộc nên rất chân tình, thiết tha đoàn kết với chiến hữu. Nhưng họ cũng rất cương quyết, dứt khoát và khi cần thiết, họ lại không thầm lặng trước các thủ đoạn độc ác, gian manh trí trá. Khi sự “thầm lặng” trở mình thành “thịnh nộ” thì chính là cuồng phong ba đào, có thể gọi đó là sóng thần kết tụ bởi nhiều, rất nhiều những dòng sóng ngầm cuồn cuộn bên dưới dòng thủy lưu. Lịch sử gọi đó là sức mạnh của hồn thiêng Dân tộc.
    Hãy nhớ rằng họ chống cộng vì cộng sản là một tập đoàn sống nhờ và sống bằng gian manh, bất lương. Họ chống cộng hoàn toàn vì trách nhiệm với Tổ Quốc, vì tồn vong của Dân tộc chứ không phải vì hay cho bọn “Phiệt” bất kể là Quân phiệt, Tài phiệt, Thế phiệt hay Trí Phiệt, Quyền phiệt hay Giáo phiệt (Phiệt Duyệt 閥閱 là bản ghi công trạng, vua khen thưởng cho công thần và được treo trước cửa nhà, bên tả là Phiệt, bên hữu là Duyệt để công chúng biết mà kính nể, trọng vọng).
    Từ đây suy ra, quân phiệt, học phiệt là những thành phần được xã hội trọng vọng. Về sau chính họ hay những thế hệ tập ấm thường cậy công, cậy thế hống hách, sách nhiễu dân lành gây không biết bao đau thương tang tóc. Quân phiệt thì dùng bạo lực quân sự. Thế phiệt thì dùng cường quyền do ưu thế dòng dõi quan gia vọng tộc. Tài-phiệt thì dùng tiền bạc của cải để “đa kim ngân, phá luật lệ ”. Giáo phiệt thì dùng giáo quyền tôn giáo để thực hiện những tham vọng riêng tư cho cá nhân giáo sĩ hay cho sự phát triển tôn giáo họ…). Những kẻ kiêu ngạo, nhờ tấm bảng “Phiệt – Duyệt” tự cho mình là chân lý, là tối thượng, và mọi thành phần, mọi tổ chức khác phải khâm phục, tuân thủ.
       Do hoàn-cảnh xã-hội và nhu-cầu chống cộng, chống tà gian, chúng ta lại phải đối đầu một loại duyệt phiệt mới tạm gọi là: lương hảo phiệt, chống cộng phiệt nghĩa là một cá nhân hay một tổ chức nào đó nhờ vào một số thành tích chống cộng, làm bình phong, vì quá khứ đã hiển lộ được sự chân chính, đáng gọi là lương hảo. Nhưng rồi họ dùng công trạng đó như là một thứ vốn liếng để gây tạo thanh danh, thế lực, thao túng đại cuộc. Họ rình rập cơ hội để xé to, thổi phồng thêm những lầm lỗi của bất cứ ai, bất cứ tổ chức nào dù chỉ ở mức vi cảnh, hay nặng lắm là án phạt tội tiểu hình trở thành tội đại hình, đáng "tru-di tam tộc”. Dù vết thương chỉ đáng băng bó, thì họ lại giải phẫu, cố tình làm cho lỡ loét, ung thối để chặt bỏ và...đem chôn! (người phạm lỗi có khi do vô tình, do hoàn cảnh và cũng do không tiên đoán sẽ bị “chiến hữu“, hay nói theo kiểu cộng sản là ” nâng lên thành quan-điểm !”. Những lương hảo phiệt hay chống cộng phiệt nầy biến lỗi lầm của chiến hữu thành cơ hội, thành điều kiện và tận tình khai thác như: Lên án, vu khống, nhục mạ, nhất quyết bao vây không cho đối phương chiến hữu có điều kiện giải trình. Họ quyết khai tử bất cứ cá nhân hay thế lực nào xét thấy nguy hiểm cho vị thế độc quyền, độc tôn chống cộng của họ. Họ làm vẩn đục, gây nhiễu nhương phân tranh, tác hại tiềm lực chống cộng, mà hậu quả là lực lượng chống cộng bị rã rời, đào sâu sự nghi ngờ, chia rẽ mà cuối đường có thể là nguy cơ niềm tin bị tàn phá. Và thế là, do kiêu căng, do ý niệm công thần, từ vị trí lương hảo họ trở thành tai họa cho dòng tiến của lịch sử.
       Sự hiện diện của giới thầm lặng chính là tiếng nói rõ ràng, dứt khoát, là thái độ minh thị sự quyết tâm dấn thân cho đại cuộc. Hãy nhớ rằng giới thầm lặng rất tỉnh táo, phân biệt rất rõ ràng giữa tình cảm cá nhân và trách nhiệm người lưu vong, tỵ nạn cộng sản. Những nhà chính trị mộng du, những nhà lương hảo phiệt, chống cộng phiệt đừng nghĩ rằng lực lượng âm thầm đó không có phương tiện để biểu cảm rồi nhân danh họ mà làm những điều vô minh, bất chính. Thái độ thao túng ấy sẽ bị lực lượng thầm lặng trả lời bằng phản hồi với một thông-điệp: "Chúng tôi không thể chung đường với quý vị vì dường như quý vị cũng có những đặc tính na ná giống cộng sản, quý vị vô tình làm lợi cho cộng sản !”. Lực lượng âm thầm không có nhu cầu thay thế tập đoàn vô luân nầy bằng một tập đoàn vô luân khác.
        Thầm lặng không bao giờ là im lặng. Thầm lặng cũng biết nổi giận! Như trên đã nói, Khi thầm lặng nổi giận thì tác hại kinh khiếp vô cùng. Lịch sử chính trị thế giới đã từng chứng minh các cuộc Cách Mạng long trời lở đất, làm đảo lộn các hệ thức chính trị, đánh đổ những chế độ chính trị kềm hãm quyền sống con người, khai mở những kỷ nguyên chính trị Tự Do, Dân Chủ và Nhân Bản đều vì và do đa số thầm lặng tác động.
    Lực lượng thầm lặng đã từng chiến thắng quân phiệt, tài-phiệt, thế-phiệt… và chắc chắn sẽ không cho phép bọn hoạt đầu chính trị khống chế, thao túng họ dưới phấn son áo mão của những người đánh lừa nhân thế để được thế nhân gọi là lương hảo. Nhưng khi con tắc kè biến màu sang “ phiệt”, thì lực lượng thầm lặng xem bọn “lương hảo phiệt”, hay “chống cộng phiệt” cũng là bọn bất lương, cũng nham-hiểm ác độc như Cộng sản, nhưng lại có phần nguy hiểm hơn cộng sản,  bởi vì chúng là những con rận trong chăn, khó phát hiện hơn và độc hại hơn. Và vì thế, dĩ nhiên, trong nhiều trường hợp lực lượng thầm lặng phải xem chúng là kẻ nội thù.
Xin hãy tỉnh thức hỡi những chính trị gia mộng du. Hãy quăng bỏ chiếc áo “lương hảo phiệt”, “chống cộng phiệt”. Hãy trở về vị trí những nhà lương hảo, những chiến sĩ chống cộng chân chính để chúng tôi vẫn được là những chiến hữu như trước kia của quí vị với tất cả niềm tôn kính và thân thiết.
                                                          Tống Phước Hiến

Wednesday, March 21, 2012

Thư Ngỏ Gửi Ông Liên Thành Về Bài Viết
“Sự Thật Về Ông Thích Đôn Hậu”
 
                                           (Quan Điểm của Huynh Trưởng Lê Công Cầu)
 
           
Huynh Trưởng Lê Công Cầu đang bị công an cộng sản vây bắt tại chùa Giác Minh Đà Nẳng)
Kính gởi: Ông Liên Thành
Nguyên Trưởng Ty Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Thừa Thiên.
Tác giả cuốn sách “Biến Động Miền Trung”.
 
Thưa Ông Liên Thành.
            Tôi nhớ rất rõ niên khóa 1969-1970 tôi vào học tại trường Đại Học Luật Khoa Huế, thì Liên Thành cũng đến học tại trường nầy. Vài sinh viên xì xào chuyện Ông Trưởng Ty Cảnh Sát đi học luật thì được thầy Hồ Khuê, Thư Ký Đại Học Đường, giải thích rằng Ông Liên Thành đi học năng lực luật tức là học cho biết luật để làm việc chứ không phải học cử nhân luật vì Liên Thành chưa có bằng tú tài. Tôi thật sự giật mình, giật mình vì những chức vụ trọng yếu của chính quyền mà giao vào tay những kẻ thiếu học chỉ dựa vào thế lực đảng phái để tiến thân thì sẽ là một thảm họa cho đất nước và thảm họa đã đến năm 1975 chứng minh rất đúng cho điều tôi suy nghĩ.
Sau bao năm chìm dần vào quên lãng thì đầu năm 2008 tôi đọc được sách “Biến Động Miền Trung” do Liên Thành viết được phổ biến trên các diễn đàn điện tử.
Sự ra đời của “Biến Động Miền Trung” trùng hợp vào thời điểm Hội Đồng Lưỡng Viện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ra Tuyên Cáo lên án Trung Cọng xâm lược 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, đồng thời lên án Đảng Cọng Sản Việt Nam đồng lõa với Trung Cọng qua Công hàm bán nước của ông Phạm văn Đồng ký năm 1958.
Sự trùng hợp nầy buộc lòng tôi phải đi đến hai suy nghĩ:
            1/ Tại Quốc Nội: 35 năm dưới chế độ độc tài toàn trị, Đảng Cọng Sản Việt Nam đã tước đoạt hoàn toàn mọi quyền tự do của con người, bán đứng biên cương, hải đảo của tổ quốc, dâng hiến cho ngoại bang tài nguyên đất nước và phế bỏ nền đạo lý dân tộc. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã công khai lên án chế độ Cọng Sản phi nhân và mở đầu công cuộc vận động giải trừ Quốc nạn nên đảng Cọng Sản đã tìm mọi cách để tiêu diệt thẳng tay hòng dập tắt phong trào đấu tranh cho dân chủ mà Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là lá cờ đầu.
Nội dung cuốn “Biến Động Miền Trung” của Liên Thành đã Cọng Sản Hóa các phong trào đấu tranh của Phật Giáo, vu cáo các cuộc đấu tranh năm 1963, 1966 của Phật Giáo đều do Cọng Sản tổ chức và điều khiển, vu cáo các cấp lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất hoạt động cho Cọng Sản nhằm “phá rối” chính thể Việt Nam Cọng Hòa đưa đến thảm họa mất nước năm 1975.
Nội dung cuốn “Biến Động Miền Trung” của Liên Thành lại còn Phật Giáo Hóa biến cố Mậu Thân, vu cáo các cấp lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là người trực tiếp chỉ huy các cuộc giết người đẫm máu và nhất là chôn sống hơn 5000 người dân vô tội vào mùa xuân 1968.
Với tội ác do Liên Thành dựng lên như thế tất nhiên Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất chẳng còn được ai tin tưởng, công cuộc giải trừ Quốc nạn của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất xem như bị vô hiệu hóa.
Cho nên Liên Thành viết “Biến Động Miền Trung” không ngoài mục đích tiếp tay với Đảng Cọng Sản Việt Nam trong việc tiêu diệt uy thế của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại quốc nội.
2/ Tại Hải Ngoại: 35 lưu lạc xứ người, ngày nay Cộng đồng người Việt hải ngoại đã tái lập được cuộc sống ổn định. Để có cuộc sống ổn định đó, họ đã đem sinh mạng của mình để đánh đổi tự do, chấp nhận vùi thây trên biển cả, bỏ xác giữa rừng sâu chứ không chấp nhận chế độ Cọng Sản nên họ đã ra đi, ra đi với nỗi lòng oán hận Cọng Sản vì đa số họ là dân quân cán chính Việt Nam Cọng Hòa.
Giữa lúc Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại đang ổn định và đoàn kết, tạo cơ hội cho việc yểm trợ phong trào đấu tranh dân chủ tại quốc nội thì “Biến Động Miền Trung” của Liên Thành ra đời. Với những vu cáo, bịa đặt để Cọng Sản Hóa các phong trào đấu tranh Phật Giáo và Phật Giáo Hóa biến cố Mậu Thân nhằm khơi dậy hận thù tôn giáo, đảng phái… Liên Thành đã làm phân hóa tinh thần đoàn kết của Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn
Như vậy Liên Thành viết “Biến Động Miền Trung” không ngoài mục đích tiếp tay với Đảng Cọng Sản trong việc tiêu diệt tiềm lực đấu tranh dân chủ hóa đất nước tại hải ngoại, tíếp tay cho việc thực hiện thành công Nghị Quyết 36 của Đảng Cọng Sản Việt Nam.
            Thưa Ông Liên Thành.
Cuộc tranh đấu của Phật Giáo năm 1963 và 1966 đã đi vào lịch sử, chính nghĩa của nó đã được cả cộng đồng dân tộc thừa nhận cho nên nó đã nằm yên trong ý thức của mỗi con người, không còn ai bàn cãi.
Biến Cố Mậu Thân 1968 cũng vậy, nó đã đi vào lịch sử, 25 ngày đêm chiếm Huế, Cọng Sản đã giết hại trên 5000 dân lành vô tội. Mỗi người dân đều ghi khắc tội ác nầy vì đó là sự kiện lịch sử, lịch sử đã phán xét, dù Liên Thành có tìm cách chạy tội cho chính mình, chạy tội cho Cọng Sản, đổ tội lên đầu Phật Giáo thì tội ác cũng không tránh được luật nhân quả muôn đời.
Vì thế sau khi đọc “Biến Động Miền Trung”, nhiều lần tôi muốn lên tiếng, nhưng khốn nỗi tôi đang ở Huế, ở cái nơi mà 35 năm qua quyền tự do ngôn luận của con người bị vùi dập cho nên tôi đành im lặng.
Nhưng tôi rất vui mừng vì đã có nhiều người lên tiếng, phân tích, lên án mục tiêu đen tối của sách “Biến Động Miền Trung”, tiêu biểu là 4 văn kiện quan trọng cảnh báo Liên Thành trước một tội ác với dân tộc và tôn giáo của mình:
1/ Về nội dung “Biến Động Miền Trung”: Ông Bảo Quốc Kiếm đã viết 37 bài “Liên Thành và Mắm Tôm”, phân tích tỷ mỷ cho độc giả thấy những dối trá, sai lầm, bịa đặt, vu cáo mà ông Liên Thành đã dựng lên để lật ngược lịch sử, hãm hại Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
2/ Về ảnh hưởng của “Biến Động Miền Trung”: Ông Định Nguyên đã viết bài “Hội Luận Hay Minh Họa” phổ biến tháng 11.2009 nói thẳng chủ tâm của Liên Thành chia rẽ cộng đồng, phá hoại tiến trình đấu tranh dân chủ hiện nay.
3/ Vể thái độ đối với “Biến Động Miền Trung” : “Bản Lên Tiếng của Ủy Ban Phối Hợp các Chánh Đảng tại Houston” ngày 28.7.2009 là lời buộc tội trực diện đối với Liên Thành qua chủ tâm khích động hận thù tôn giáo mà bao năm qua người dân Việt Nam chân chính ai ai cũng mong muốn hàn gắn vết thương lòng.
4/ Về trách nhiệm: Hoàng Tộc Triều Nguyễn đã chính thức ra thông báo ngày 29.9.2009 nêu rõ Liên Thành đã “tự tiện viết sách, tiếp tay phá hoại Phật Giáo Việt Nam cũng như chia rẽ phân hoá cộng đồng người Việt Hải Ngoại”. Hoàng Tộc Triều Nguyễn đã chính thức xin Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống kiêm Viện Trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN tha lỗi.
Chỉ chừng đó thôi cũng đã quá đủ để Liên Thành nhìn lại nhận thức và hành động của mình. Nhưng không, Liên Thành vẫn hung hăng khoác lác tổ chức hết buổi hội luân nầy đến buổi ra sách nọ với một nhóm người mẹ hát con khen vì họ thấy quyển sách “ly kỳ và hấp dẫn” đến độ che lấp hẳn sự thật mà nhóm người mù quáng kia không thể nhận ra.
Cao điểm là ngày 18.01.2010 Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ban hành Thông Tư về các bài viết trên Mạng vu cáo hàng lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Thông tư nêu rõ: “Qua bản Thông tư hôm nay Ban Chỉ đạo Viện Hoá Đạo kêu gọi chư Tôn đức Tăng Ni, Phật tử, đặc biệt ở hải ngoại có nhiều phương tiện thông tin, tìm kiếm tài liệu, hãy thu tập chứng liệu và tìm phương cách giải hoặc những bài viết hoặc do thiếu hiểu biết, hoặc cố tâm vu cáo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất theo các chủ trương tiêu diệt những sinh lực dân tộc, mà Phật giáo là một, cho những viễn đồ phi dân tộc và phản tổ quốc”.
            “Thông tư hôm nay là lần đầu tiên Giáo hội Trung ương lên tiếng, mà cũng là lần cuối cùng cất lên trước hiện trạng mạ lỵ kéo dài hàng chục năm bằng thứ ngôn ngữ khiếm nhã và lý luận hồ đồ. Không phải để đôi co mà là để phản bác những vu hãm đầy hậu ý đối với Giáo hội bấy lâu nay”.
Như có tật giật mình, ngay lập tức Liên Thành phổ biến bài “Sự Thật về Ông Thích Đôn Hậu” để phản bác Thông Tư của Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN. Với lời lẽ xấc xược, hàm hồ, Liên Thành đã nhân danh nguyên Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên xác quyết “Ôn Đôn Hậu là Cọng Sản”, “Ôn Đôn Hậu là cơ sở Tôn Giáo Vận của Cọng Sản từ trước năm 1963” và “Ôn Đôn Hậu là thủ phạm của Biến Cố Mậu Thân 1968”. Đồng thời Liên Thành nhiều lần đem tư cách, danh dự, trách nhiệm của một nguyên Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia thách thức tranh luận đến cùng với bất cứ những ai cho rằng Ôn Đôn Hậu không phải là Cọng Sản. Và sau hết Liên Thành đem gia thế của mình ra khoe để chứng minh rằng mình không có viễn đồ phi dân tộc và phản bội tổ quốc như Viện Hóa Đạo qui kết.
           Thưa Ông Liên Thành.
Hôm nay, nhân ngày húy nhật lần thứ 18 của Đức cố Đệ Tam Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất: Đại Lão Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, nhân danh là một Phật Tử Huế có mặt trong suốt những ngày Tranh Đấu đưa Bàn Thờ Ra Đường 1966 và chịu nỗi kinh hoàng trong Biến Cố Mậu Thân, tôi sẽ vạch cho Ông thấy cái viễn đồ phi dân tộc và phản bội tổ quốc ngay trong bài viết “Sự Thật Về Ông Thích Đôn Hậu” mà Ông là tác giả.
 
VIỄN ĐỒ PHI DÂN TỘC CỦA LIÊN THÀNH
 
1/ Liên Thành viết:
 “…Đầu tiên, có thể tóm tắt thân thế và sự nghiệp của Ông Đôn Hậu như sau:
…Năm 1963 đứng trong hàng ngũ lãnh đạo phong trào tranh đấu lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm và nền đệ nhất Cộng Hòa…”
Thưa Liên Thành: Lịch sử Phật giáo cận đại chưa bao giờ có một cuộc tranh đấu nào gọi là “tranh đấu lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm và nền đệ nhất Cọng Hòa” cả. Trong lúc cả dân tộc và thế giới đều biết cuộc tranh đấu của Phật Giáo năm 1963 nhằm đòi hỏi bình đẳng tôn giáo, hủy bỏ đạo dụ số 10, chống chính sách kỳ thị tôn giáo của chế độ gia đình trị họ Ngô. Hậu quả chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ là sự tất yếu của lịch sử do giới quân nhân và chính sách Hoa Kỳ chủ trương. Vậy mà Ông vu vạ cho Phật Giáo tranh đấu lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm và nền đệ nhất Cọng Hòa. Không phải do Ông dốt nát, thiếu hiểu biết mà do ông có ý đồ khích động lòng hận thù dân tộc. Vậy đây có phải là viễn đồ phi dân tộc không Liên Thành?
 
2/ Liên Thành viết:
 “…Cuối tháng 6 năm 1966 khi cuộc phản loạn của ông Trí Quang và đồng bọn tại miền Trung, đặc biệt tại Huế bị thất bại…”
Thưa Liên Thành: Trước hết xin minh định với ông phản loạn là gì? Phản loạn là những người nằm trong cùng một tổ chức, trong cùng đảng phái dùng bạo lực để chống lại lãnh đạo của họ. Phật Giáo chưa bao giờ nằm trong chính quyền, Phật Giáo chống chính quyền căn cứ trên quyền tự do dân sự của người công dân được Công ước Quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị của LHQ bảo đảm đối với một chính quyền không đáp ứng nguyện vọng của toàn dân, sao Ông cho là phản loạn? Liên Thành ở Mỹ mấy mươi năm hẳn thường xuyên chứng kiến quyền này của người công dân Hoa Kỳ?
Cuộc tranh đấu 1966 mà ông gọi là Biến Động Miền Trung có chủ trương rất rõ ràng là đòi hỏi chế độ quân phiệt hiện tại phải tổ chức bầu cử một Chính Quyền Dân sự thật sự để có đủ khả năng vãn hồi hòa bình cho đất nước. Cuộc tranh đấu đã bị đàn áp khốc liệt vì người ta chụp mũ “bị Cọng Sản giựt dây”, nhưng chính nghĩa của nó không ai phủ nhận được, đó là sự ra đời của nền Đệ Nhị Cọng Hòa do ông Nguyễn Văn Thiệu làm Tổng Thống cho dù là Tổng Thống độc diễn và quân phiệt. Hơn thế nữa, những quân dân cán chính tham gia phong trào sau một thời gian bị câu lưu đều được phục hồi nguyên trạng, trở về phục vụ trong thể chế Cọng hòa, đó là sự xác nhận hùng hồn nhất của chính nghĩa đấu tranh mà cả chính quyền và nhân dân đều thừa nhận. Ông đi ngược lại quan điểm của toàn dân và ngay cả chính quyền Việt Nam Cọng Hòa mà ông đang phục vụ, cố tình vu vạ cho Phật Giáo, vậy có phải là viễn đồ phi dân tộc không ông Liên Thành?
 
3/ Liên Thành viết:
 “…Cho dù là các người này không thích chính quyền Miền Nam, nhưng họ phải chấp nhận rằng 2 chính quyền VNCH là chính quyền hợp pháp được đa số dân chúng tin nhiệm và giao phó trách nhiệm điều hành quốc gia. Dân chúng không giao quyền điều hành quốc gia cho ông Đôn Hậu, Trí Quang. Họ đã phản loạn đi rêu rao với quốc tế là chính quyền Miền Nam là chính quyền phi nghĩa. Họ đã chà đạp lên những lá phiếu của đa số dân chúng.
 “Như vậy, chiếu theo luật pháp các nước dân chủ, những người này, những kẻ gọi là phong trào Phật Giáo Tranh Đấu, mà thực chất là cộng sản lãnh đạo giật dây từ xa, cả ông Đôn Hậu Trí Quang, đã chà đạp lên kết quả 2 cuộc bầu cử, đã vi phạm luật pháp quốc gia, đã phản loạn theo địch”.
Thưa Liên Thành: Chính quyền của tất cả các nước dân chủ trên thế giới đều được bầu lên bằng lá phiếu hợp pháp của toàn dân. Nhưng không phải họ lên lãnh đạo đất nước là họ toàn quyền muốn làm gì thì làm, không ai được quyền phản đối. Vì thế luật pháp các nước dân chủ qui định quyền biểu tình để cho người dân bày tỏ thái độ khi chính quyền không đáp ứng nguyện vọng của người dân, cho nên tranh đấu, biểu tình là hợp pháp để tránh chế độ độc tài. Có luật pháp của nước dân chủ nào mà lạ lùng như ông dẫn thượng? Hay ông đem luật pháp Cọng Sản Việt Nam ra để chứng minh?
Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, dưới chế độ độc tài toàn trị, bao nhiêu người tranh đấu cho dân chủ, bao nhiêu người biểu tình lên án Trung Quốc xâm lược đã bị Đảng Cọng Sản Việt Nam bắt bỏ tù.
Trước đây ông đã từng là Trưởng Ty Cảnh Sát Quốc Gia, nay ông đang cư trú trên một đất nước tự do sao ông lại lý luận ngược dòng như thế. Trong khi toàn dân đang tranh đấu cho một thể chế dân chủ tự do thì ông lại buộc tội các phong trào tranh đấu Phật Giáo là chà đạp lên kết quả 2 cuộc bầu cử, là vi phạm luật pháp quốc gia, vô tình ông đã tán trợ cho chính sách đàn áp của Cọng Sản hiện nay. Đây có phải là viễn đồ phi dân tộc không Liên Thành?
 
4/ Liên Thành viết :
 “….Thưa, không dễ chối tội kiểu như vậy thưa ngài Đôn Hậu! Ngài có thể tâm sự nói thế này thế nọ với những người không biết gì hết hầu cận quanh ngài, nhưng tôi chắc ngài không thể chạy tội trước BCH/CSQG/TT/ HUẾ…”
Thưa Liên Thành: Đến đây thì tôi bổ ngửa. một ông Trưởng Ty Cảnh Sát Quốc Gia mà lại lầm lẫn giữa cơ quan an ninh và cơ quan tư pháp. Cảnh Sát là an ninh, an ninh có quyền bắt người khi có nghi vấn vi phạm luật pháp. Nhưng an ninh không có quyền định tội. Cơ quan định tội là cơ quan tư pháp tức là tòa án. Ngày nay tại Việt Nam bao nhiêu người bị giam giữ mà không cần đưa ra tòa xét xử, Công An đã thay thế luật pháp định đoạt thân phận các nhà đấu tranh. Vậy Ban Chỉ huy Cảnh sát Quốc gia Thừa thiên – Huế (BCH/CSQG/TT/HUẾ) định tội Ôn Đôn Hậu khi nào mà dám nói Ôn không thể chạy tội trước BCH/CSQG/TT/HUẾ? Sao giọng điệu của Liên Thành giống giọng điệu Cọng Sản thế. Có phải đây là viễn đồ phi dân tộc không Liên Thành?
 
LIÊN THÀNH NUÔI DƯỠNG CỌNG SẢN NẰM VÙNG, PHẢN BỘI TỔ QUỐC
 
Trang đầu tiên của bài “Sự Thật Về Ông Thích Đôn Hậu”, Liên Thành viết:
 “…Đúng là cộng sản, tôi đi đến cùng, triệt hạ thẳng tay, bất kể đó là chùa hay nhà thờ.
 “Núp bóng thế lực chùa hay nhà thờ để tạo sức mạnh hoạt động cộng sản, gây rối trị an, hoàn toàn không có giá trị gì với tôi cả…”
Và trong bài “Trịnh Công Sơn và những hoạt động nằm vùng” Liên Thành viết:
 “…Ông thân sinh tôi làm Cọng Sản thì tôi cũng bắt…”.
Thế nhưng chính Liên Thành đã nuôi dưỡng Cọng Sản nằm vùng phá hoại miền Nam Việt Nam cả pháp lý lẫn tinh thần, Liên Thành có dám nhận không?
 
VỀ PHÁP LÝ:
 
Liên Thành đã tạo pháp lý cho Cọng Sản nằm vùng hoạt động:
 
1/ Liên Thành viết:
“…Tôi nhớ không lầm thì đó là ngày 11/6/1966. Trời nhá nhem tối, tôi chỉ huy điệp vụ, đứng hơi xa hiện trường. Hai anh em Hoàng phủ Ngọc Tường từ nhà Chính, bên này cầu Phủ Cam, đi rất nhanh sang nhà Trịnh Công Sơn, bên kia cầu Phủ Cam. Trịnh Công Sơn đã có kế hoạch chuẩn bị trước cho hai tên này ăn cơm tối tại nhà. Sau đó, một chiếc xe hơi màu trắng đến đón Tường và Phan đi ngay.
“Tài xế là Lê Cảnh Đạm. Hộ tống là giáo sư Tôn thất Dương Tiềm. Họ lên chùa Thiên Mụ, và sau đó đi bộ vượt Long Hồ, Ngọc Hồ, vượt nguồn tả sông Huơng đến mật khu sau núi Kim Phụng.
“Chiếc xe hơi trắng đó là của bà Tuần Chi, tức Đào Thị Yến. Mậu Thân 1968, bà giữ chức vụ Phó Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố Huế. Vài ngày sau, đã cùng một phái đoàn đông đảo trí thức miền Nam và Thượng Tọa Thích Đôn Hậu, mà theo sự theo dõi ghi nhận của CSQG Thừa Thiên - Huế, cũng là người tình của bà, thoát ly ra Bắc.(1)
 “Đó là lần đầu tiên mà lực lượng Cảnh Sát Đặc Biệt thuộc BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế phát hiện hành động tiếp tay cộng sản của Trịnh Công Sơn”.
Thưa Liên Thành: Ông chỉ huy điệp vụ, sự kiện diễn ra trước mắt Ông và trong tầm tay của Ông, sao Ông không bắt để trừ hậu họa cho dân chúng mà Ông để họ đào thoát lên rừng để Tết Mậu Thân họ về lại Huế giết hại dân lành như Ông nói. Ông đổ tội cho ai đây khi chính Ông thả cọp về rừng. Ông có đi đến cùng triệt hạ thẳng tay như Ông nói không? Hành động nầy có phải là hành động phản bội Tổ Quốc không Ông Liên Thành?
 
2/ Liên Thành viết:
 “…Trịnh Công Sơn tiếp xúc với VC nằm vùng trong giới trí thức, sinh viên, đặt biệt với một cán bộ quan trọng của cơ quan Thành ủy VC. Cán bộ đó là Lê Khắc Cầm, em ruột của giáo sư Lê Khắc Phò. Y sống hợp pháp trong thành phố Huế…”
Thưa Liên Thành: Ông biết rõ Lê Khắc Cầm là cán bộ quan trọng của cơ quan Thành Ủy VC, người chỉ huy trực tiếp Trịnh Công Sơn, sao Ông không bắt. Tôi là học trò của Thầy Lê Khắc Phò và Cô Lê Thị Liên, nên tôi hay đến thăm Thầy Cô tại ngôi nhà đường Đinh Công Tráng, thành nội Huế. Tại đây tôi thấy Lê Khắc Cầm sống ung dung cho đến ngày 30.4.75. Không những thế các cán bộ nằm vùng cọng sản mà Liên Thành đã liệt kê trong danh sách lại thường tới lui công khai với Lê Khắc Cầm. Vậy ai đã tạo điều kiện cho họ sống và hoạt động hợp pháp như Liên Thành viết? Với chức vụ Trưởng Ty Cảnh Sát thì chỉ có Liên Thành mới có thẩm quyền đó mà thôi. Vậy ai nuôi dưỡng Cọng Sản Nằm vùng đây Liên Thành? hành động đó có phải là phản bội Tổ Quốc không Liên Thành?
 
3/ Liên Thành không viết nhưng tôi biết:
Sinh Viên Huế không ai là không biết trụ sở Tổng Hội Sinh Viên số 4 đường Trương Định. Đây là nơi ăn ở và hoạt động công khai của một số cán bộ Cọng Sản nằm vùng như Phạm Thị Xuân Quế, Võ Quê, Hoàng Thị Thọ... Tại đây họ lên kế hoạch hoạt động và tiếp xúc thường xuyên với sinh viên các cấp. Tôi biết, sinh viên Huế biết, không lẽ Liên Thành không biết, biết sao không bắt?!
Thêm nữa, anh Trần Hoài, Chủ Tịch Sinh Viên tranh đấu Miền Trung mà Liên Thành biết rất rõ là Cọng Sản (trong bài Trịnh Công Sơn) tại sao Liên Thành không bắt mà để anh tung hoành như ở chỗ không người? Anh tổ chức các cuộc triển lãm Tội Ác Diệt Chủng Của Đế Quốc Mỷ ngay tiền sảnh Morin mà Liên Thành không hề đụng tới. Anh sống nhởn nhơ cho đến ngày Cọng Sản Cưỡng Chiếm Miền Nam ngay trước mắt Liên Thành. Vậy thì chính Liên Thành đã nuôi dưỡng lớp cán bộ nằm vùng nầy chứ không ai khác. Đây có phải là phản bội Tổ Quốc không Liên Thành?
Liên Thành đã biện minh rằng: “Có người hỏi tôi tại sao không bắt, tôi trả lời nếu bắt thì chỉ được một vốn một lời, tôi muốn một vốn mười lời cơ”. Và “mười lời”của Liên Thành là cái chết khủng khiếp của trên 5000 dân Huế trong Tết Mậu Thân do bàn tay của cán bộ Cọng Sản nằm vùng được Liên Thành nuôi dưỡng tạo nên. “Mười lời” của Liên Thành là mất nước với sự đóng góp to lớn của cán bộ Cọng Sản nằm vùng, trong đó có cán bộ Cọng Sản nằm vùng tại Huế do Liên Thành nuôi dưỡng góp công.
Hành động vừa ăn cướp vừa la làng nầy có phải là phản bội Tổ Quốc không Liên Thành?
 
VỀ TINH THẦN:
  Liên Thành tạo điều kiện cho việc đầu độc tinh thần bất khuất của Dân Tộc.
 
Liên Thành viết:
 “Bài ca dao trên cồn cát, trên ngai vàng quê nhà một thời ngủ yên tuổi xanh… rồi một hôm chợt thấy hoang vu quanh mình…”
 “Đó là bài nhạc phản chiến đầu tiên của Trịnh Công Sơn. Tác phẩm này được thai nghén trong một cái lò cộng sản nằm vùng, theo ý muốn của cộng sản Hà Nôi, thì dĩ nhiên nó là con đẻ của CS. Trong khi bao nhiêu thanh niên cùng trang lứa với Trịnh Công Sơn đang cầm súng chiến đấu tất bật, thì Trịnh Công Sơn không làm gì cả. Chỉ ăn xổi ở thì, đến nỗi chợt thấy hoang vu quanh mình, nên đi làm cộng sản
 “Sau nầy Trịnh Công Sơn viết nhạc nói về cuộc chiến theo nhu cầu đấu tranh tại đô thị của đám sinh viên, trí thức, hoạt động nằm vùng. Nhu cầu đó là làm tê liệt tinh thần bất khuất truyền thống của người VN, không muốn chiến đấu, bi quan nhu nhược, ỷ lại cầu an. Nhiệm vụ của Trịnh Công Sơn là chế ra những loại thuốc độc như thế!”
 
Thưa Liên Thành: Biết được như thế là rất tốt, nhưng Liên Thành đã làm ngược lại tất cả những gì Liên Thành nói.
Tại Huế, nhạc Trịnh Công Sơn bùng nổ mãnh liệt trong thời gian Liên Thành làm Trưởng Ty Cảnh Sát Quốc Gia (1966-1975), không một quán cà phê nào, không một tiệm ăn nào không có Khánh Ly hát nhạc Trịnh Công Sơn. Hai rạp chiếu bóng Hưng Đạo và Tân Tân bắt loa khuếch đại nhạc Trịnh Công Sơn để quảng cáo vang dội khắp kinh thành. Với tư cách Trưởng Ty Cảnh Sát, Liên Thành có biện pháp nào ngăn chận loại thuốc độc nầy không ? hay chính Liên Thành cũng mê nhạc Trịnh Công Sơn ?
Tôi nhớ rất rõ, ngày ấy tôi là Ủy Viên Tu Thư của Ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật Tử Thừa Thiên, Đại Úy Cảnh Sát Lê Khắc Kỷ, Trưởng Phòng An Ninh Nội Bộ của Liên Thành lại là phụ tá của tôi cho nên tôi hay đến Ty Cảnh Sát tìm anh Kỷ để bàn bạc công việc. Mỗi lần như thế hai anh em dắt nhau xuống Câu lạc bộ cảnh sát (ngay trong khuôn viên Ty Cảnh Sát) để uống nước. Tại đây nhạc Trịnh Công Sơn vẫn dìu dặt như bao nhiêu con đường phố Huế. Và cũng tại đây tôi đã gặp nhiều anh em Cảnh Sát uống cà phê nghe nhạc Trịnh mà ấn tượng nhất với tôi là Đại Úy Ngô Quí Tửu, Trưởng Phòng Cảnh Sát của Liên Thành.
Liên Thành cứ hỏi hai Ông Đại Úy nầy (đang ở Mỹ) xem Lê Công Cầu có nói láo hay không.
Vậy thì ai tạo điều kiện cho nhạc Trịnh Công Sơn đầu độc tinh thần bất khuất của Dân tộc đây Liên Thành? Thậm chí Liên Thành lại còn đầu độc chính anh em Cảnh Sát của mình ngay tại Câu lạc bộ Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên Huế. Liên Thành làm sao chạy tội phản quốc đây?
 
LỊCH SỬ TÁI DIỄN:
 
Thưa Liên Thành: Văn bản “Sự Thật Vể Ông Thích Đôn Hậu” của Liên Thành làm tôi thật sự đau lòng.
Nếu Liên Thành không đem tư cách, danh dự và trách nhiệm của Nguyên Trưởng Ty Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên Huế ra thách thức thì chắc là tôi không lên tiếng làm gì.
Nếu Liên Thành không đem tư cách, danh dự và trách nhiệm của một Phật Tử ra để buộc tội Đức cố Đệ Tam Tăng Thống thì tôi cũng chẳng cần viết thư nầy.
Vậy Liên Thành và những người tán trợ cho sách “Biến Động Miền Trung”, những người đồng tình vu cáo Đức cố Đệ Tam Tăng Thống của chúng tôi là Cọng Sản xin hãy bình tâm suy nghĩ:
 
1/ Liên Thành là Trưởng Ty Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên Huế, là một công chức cao cấp của Chính Phủ Việt Nam Cọng Hòa, nhưng Liên Thành không hề trưng dẫn được một chứng liệu nào của Việt Nam Cọng Hòa buộc tội cố Hòa Thượng Thích Đôn Hậu là Cọng Sản. Ngay tài liệu giải mật của CIA Liên Thành cũng xem như vô giá trị. Từ đầu đến cuối Liên Thành hoàn toàn căn cứ vào lời khai của những cán bộ Cọng Sản nằm vùng nhất là Trung Tá tình báo Việt Cọng Hoàng Kim Loan. Đối với Liên Thành, lời khai của những cán bộ nằm vùng nầy là chân lý lịch sử, Liên Thành đã đặt niềm tin tuyệt đối vào những lời khai nầy. Lạ lùng thay cho một Trưởng ty Cảnh sát kiêm Tình báo viên như Liên Thành lại không biết thủ thuật công an mật vụ của Cộng sản ngay cả khi chúng sa cơ “vào tay giặc”nhằm sử dụng qua lời khai gây chia rẽ nghi ngờ phía đối phương ! Đây là một sai lầm do non yếu chính trị và nghiệp vụ của Liên Thành, người xem các lời khai của Trung tá cộng sản Hoàng Kim Loan như Thánh Kinh!
2/ Liên Thành là sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cọng Hòa, nhưng Liên Thành cũng không hề trưng dẫn được một tài liệu nào của Quân Đội quốc gia buộc tội cố Hòa Thượng Thích Đôn Hậu là Cọng Sản. Ngay tài liệu, hồi ký của các Tướng Lãnh Việt Nam Cọng Hòa, như Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Đỗ Mậu, v.v... Liên Thành cũng lờ đi nếu không cho là vô giá trị. Liên Thành chỉ tin vào lời khai của những cán bộ Cọng Sản nằm vùng và xem những lời khai nầy là giá trị tuyệt đối.
3/ Liên Thành nhân danh là một Phật Tử và tự xưng là người thân cận và hiểu biết Đức cố Đệ Nhất Tăng Thống Thích Tịnh Khiết hơn ai hết. Vậy mà khi vu cáo Hòa Thượng Thích Đôn Hậu là Cọng Sản thì Liên Thành không hề căn cứ vào một tài liệu nào của GHPGVNTN do Đức Đệ Nhất Tăng Thống lãnh đạo. Liên Thành chỉ căn cứ vào lời khai của Cọng Sản nằm vùng như Hoàng Kim Loan, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Đào Thị Yến, Đỗ Trung Hiếu... thậm chí còn dựa vào Tố Hữu, Nguyễn Văn Linh, Trần Bạch Đằng ra chứng minh lời vu cáo của mình là đúng. Đối với Liên Thành, lời khai của cán bộ Cọng Sản nằm vùng là tối thượng. Liên Thành tin tưởng tuyệt đối vào những lời khai nầy để khẳng định Hòa Thượng Đôn Hậu là Cọng Sản.
 
Thưa Liên Thành: Hoàng Tử Nguyễn Phúc Cảnh, con trai trưởng của Hoàng Đế Gia Long và là tổ nội 7 đời của Liên Thành được Giám Mục Bá Đa Lộc nuôi dưỡng từ khi 3 tuổi cho tới lúc trưởng thành. 17 tuổi về lại cố hương để phục vụ triều đình Nhà Nguyễn. Ngày bái yết tôn miếu xã tắc, Nguyễn Phúc Cảnh đã chỉ vào bàn thờ Thế miếu mà nói rằng đây là ma quỷ cả, ta không lạy, ta chỉ tin vào Thiên Chúa mà thôi.
Giờ đây Liên Thành đã chỉ vào mặt Chế Độ Việt Nam Cọng Hòa, chỉ vào mặt Quân Lực Việt Nam Cọng Hòa, chỉ vào mặt Tôn Giáo của mình, Thầy Tổ của mình để nói rằng đây là giả dối, ta không tin, ta chỉ tin vào lời khai của Cọng Sản nằm vùng mà thôi.
Hai sự kiện, hai thời điểm mà sao trùng lắp như cơn bệnh di truyền! Lịch sử đã tái diễn phải không Liên Thành?
 
LIÊN THÀNH DỐI TRÁ
Và sau cùng tôi vô cùng phẫn nộ khi Liên Thành viết:
            “…Cuối cùng, với trách nhiệm là một Phật Tử, tôi phải đặt đức công bằng lên trên tất cả những tai tiếng của các lãnh đạo tôn giáo của đạo mình, mà ngay chính cá nhân tôi, trong chỗ riêng tư, phần nào cũng muốn dấu bớt, vì xấu hổ…”
 
Thưa Liên Thành: Ông muốn giấu chuyện gì đây?
Phải chăng Ông đã giấu vai trò của Đại Đức Thích Chơn Kim, thế danh là Nguyễn Phúc Liên Phú, anh của Trưởng Ty Cảnh Sát Liên Thành. Liên Thành đã để Đại Đức Thích Chơn Kim ra ngoài sách “Biến Động Miền Trung”, không hề qui tội phản loạn hay cọng sản cho Đại Đức, trong khi Đại Đức là nhân vật cốt cán của Cuộc Tranh Đấu đưa Bàn Phật Ra Đường năm 1966.
Trong cuộc tranh đấu nầy, Đại Đức Thích Chơn Kim là Đặc Ủy Thanh Niên của Ban Đại Diện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Tỉnh Thừa Thiên, thay thế Đại Đức Thích Chánh Trực được bổ nhiệm ra Quảng Trị lãnh đạo Phong Trào Đấu Tranh.
Với chức vụ Đặc Ủy Thanh Niên, Đại Đức Thích Chơn Kim trực tiếp chỉ đạo 6 ngành Phật Tử trực thuộc Tổng Vụ Thanh Niên gồm có:
- Gia Đình Phật Tử Vụ
- Học Sinh Phật Tử Vụ
- Sinh Viên Phật Tử Vụ
- Hướng Đạo Phật Tử Vụ.
- Thanh Niên Phật Tử Vụ, và
- Thanh Niên Phật Tử Thiện Chí Vụ
Đây là lực lượng chính yếu của cuộc đấu tranh mà Đại Đức Thích Chơn Kim là người trực tiếp điều khiển. Khốn thay người trực tiếp điều khiển ấy lại là anh của Liên Thành.
Cho nên Liên Thành đã giấu nhẹm vai trò của Đại Đức Thích Chơn Kim để dễ bề vu cáo cuộc tranh đấu 1966 là phản loạn, vu cáo các cấp lãnh đạo GHPGVNTN trong cuộc tranh đấu 1966 là Cọng Sản, vu cáo cố Hòa Thượng Thích Đôn Hậu là Cọng Sản đội lốt thầy tu, là thủ phạm của Biến Cố Mậu Thân.
Liên Thành có chân thực không? Chỉ một bằng chứng nầy thôi cũng đủ tố cáo sự dối trá của Liên Thành với bao nhiêu điều dối trá khác trong sách Biến Động Miền Trung.
Hãy sám hối trước Giác linh của Đức Cố Đệ Tam Tăng Thống đi hỡi “Phật Tử” Liên Thành!
 
Viết tại Cố Đô Huế,
Nhân dịp húy nhật lần thứ 18 của Đức Cố Đệ Tam Tăng Thống GHPGVNTN - Phật Lịch 2553 Huế, Ngày 21 tháng 3 năm Canh Dần, 03.5.2010 - Nguyên Chánh LÊ CÔNG CẦU - Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử Việt Nam - 154 Phan Bội Châu - Huế
 
Kính xin được trình lên:
- Đức Đại Lão Hòa Thượng Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thăng Thống kiêm Viện Trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN.
- Đức Hòa Thượng Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống GHPGVNTN.
- TT Tổng Thư Ký VHĐ kính xin chuyển đến PTT/PGQT xin phổ biến.
- VP II Viện Hóa Đạo GHPGVNTN
- HT Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Thanh Niên VHĐ/GHPGVNTN.
- Chư Tăng Chùa Linh Mụ Huế.
Mọi sự lưu hành sau khi được Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế phổ biến./.
 
-------------------------
 (1) Đọc đoạn văn chi ly do ông Trưởng ty Cảnh sát đồng thời là một điệp viên tình báo chỉ huy, điều khiển thử hỏi ai không tin cho được? Nhưng than ôi, trời bất dung gian, ông Cộng sản Huỳnh Phủ Ngọc Phan viết bài lật tẩy sự dối gạt của ông Liên Thành dưới nhan đề “Nhân đọc bài “Trịnh Công Sơn và những hoạt động nằm vùng” đăng trên Trang Nhà “Lề Bên Trái” của Nhà văn phản tỉnh Đào Hiếu (http://daohieu.com/website/?pg=cs&id=732) phản bác rằng: “Sự thực là chúng tôi không hề ghé nhà Trịnh Công Sơn ở đầu cầu Phú Cam mà ghé nhà anh Nguyễn Kim Sơn ở gần Bưu Điện Thành Phố Huế. (…) Cho đến lúc ấy và cả đến hôm nay, Nguyễn Kim Sơn chưa hề ở trong một tổ chức nào của cách mạng. Hiện anh sinh sống ở Cộng hòa Liên bang Đức và trước sau như một - là một phật tử thuần thành”.
Chúng tôi biên thư hỏi Giáo sư Đại học Huế Nguyễn Kim Sơn, hiện tị nạn cộng sản tại Cộng hòa Liên bang Đức. Giáo sư hồi đáp ngày 7.7.2009 như sau: “Chuyện Hoàng Phủ Ngọc Phan viết về Nguyễn Kim Sơn ở Huế “là hòan toàn đúng”. Chiếc xe chở 2 anh em Tường, Phan đến đia điếm “thoát ly” gần sau nhà thờ Phú Cam Huế là chiếc Borgward của tôi mua lại của anh Tôn Thất Tắc, nguyên Giám Đốc Học vụ miền Trung thời ông Diệm”. Hơn nữa Giáo sư Kim Sơn còn xác nhận rằng người lái xe hôm ấy là một Sĩ quan Việt Nam Cộng hòa.
Cứ so chiếu những sai lầm chết người được ông Trưởng ty Cảnh sát “khẳng định” bằng chính mắt ông “chỉ huy” điệp vụ như thế, khách bàng quang tự hỏi những chi tiết và sự kiện khác còn xa sự thật đến bao nhiêu?! (PTTPGQT chú).
 
 
Đôi điều với Liên Thành về
       "Biến Động Miền Trung”
       
                                                        (Quan Điểm của Trần Kiếm Đoàn)
Sau hơn 30 năm ra nước ngoài im hơi lặng tiếng, gần đây ông Liên Thành (xin viết tắt là LT), cựu thiếu tá trưởng ty cảnh sát Thừa Thiên Huế, viết hồi ký nói lên những gì ông biết về tình hình chiến tranh, chính trị và xã hội tại Miền Trung Việt Nam trong khoảng thời gian từ 1963 đến 1975.
Được tin LT sẽ ra mắt sách tại Sacramento, thành phố thủ phủ tiểu bang California vào đầu tháng 11 năm 2009. Đang là một cư dân tại thành phố nầy, tôi xin gởi lời chào LT, một đồng hương xứ Huế và cũng người đồng trang lứa với tôi. Trước cùng lớn lên và đã sống hơn nửa đời trong khung trời Huế và nay trong cảnh “tha hương ngộ cố tri!”
Tập sách “Biến Động Miền Trung” (viết tắt BĐMT) và những bài viết của LT về một số nhân vật thành danh xứ Huế đã tạo nhiều dư luận xôn xao trong cộng đồng người Việt hải ngoại. Xôn xao, bởi vì về mặt tâm lý, khát vọng lý giải hậu quả bi thảm của cuộc chiến Việt Nam đã trở thành một nỗi ám ảnh thường trực và chung thân đối với tập thể người Việt tỵ nạn ở nước ngoài. Sự phân định, xác quyết, chỉ danh điểm mặt hai tuyến nhân vật thiện–ác, chánh–tà trong cuộc tương tranh ba mươi năm đầy máu lệ là một nhu cầu tình cảm, tâm lý và tri thức của cả một thế hệ đang lần bước đến tuổi già, đang từng tháng, từng ngày thay phiên nhau về đất.
Trong một tiến trình truy tìm bằng chứng, phân tích, lý giải để tìm câu trả lời cho một vấn đề, nếu chỉ đứng về mặt phương pháp luận thì Đông – Tây rất khác nhau.
Người phương Tây thiên về lý, phương Đông ta thiên về tình; phương Tây thường lý luận và chứng minh bằng dữ kiện khách quan độc lập, phương Đông ta thường suy diễn bằng cảm nhận và kinh nghiệm chủ quan tập thể. Xác định điều nầy để nói lên sự dè dặt và cẩn trọng cần thiết về tính khả tín – mức độ đáng tin cậy – khi đọc và tìm hiểu một bản tin thời sự hay một tác phẩm liên quan đến tình hình thời cuộc như LT và BĐMT.
Qua những điều LT đã viết và đã nói trên đài phát thanh, trong các buổi hội luận thì chi tiết nầy kia có chỗ khác nhau, nhưng nội dung và chủ đích chỉ có 3 điều nổi rõ hơn cả:
Thứ nhất, LT đã cố gắng tạo ra một bối cảnh xuất thân đầy sôi động về vai trò và quyền lực cá nhân trong vị thế trưởng ty cảnh sát Thừa Thiên Huế quá nhỏ bé và giới hạn của bản thân mình trong bối cảnh chung của toàn đất nước bằng một thế giới thiên hình vạn trạng của lĩnh vực “tình báo”. Đó là một thế giới của mê hồn trận mà trong lịch sử chiến tranh và chính trị kim cổ, cho đến nay, con người vẫn còn hoang mang trong vấn nạn nhiều hơn là giải đáp vì nó dày đặc huyền thoại nhiều hơn là dữ kiện.
Thứ hai, LT đã cố ý cột buộc và đồng hóa phong trào đấu tranh Phật giáo 1963 và các hoạt động của Phật giáo trở về sau đều là cộng sản. Theo ông, các nhà sư Phật giáo trong hàng giáo phẩm lãnh đạo phong trào là đảng viên cộng sản. Từ đó, LT suy luận và diễn giải rằng, các sinh hoạt Phật giáo có liên quan gián tiếp hay trực tiếp với một tình hình xã hội miền Nam thời chiến đầy biến động là do Cộng sản Việt Nam (CSVN) điều khiển, giật giây. Tự phong cho mình vai trò phán quan của một kiểu tòa án mặt trận thời chiến pha trộn với hình thức ngôn ngữ của các cuộc đấu tố, LT cho mình quyền tự do mạ lỵ không tiếc lời các đối tượng mà ông đã “phán” là cộng sản.
Thứ ba, LT đã tự mình, cùng lúc, đứng ra làm thủ lãnh, chứng nhân, nạn nhân, quần chúng… của một thế giới ma để ông tha hồ gắn lên môi, lên mép, lên nhân dáng tưởng tượng của những người đã nằm im trong lòng đất những lời nói, ý tưởng, động thái, chứng tích không thể kiểm chứng và không còn ai đối chất. Từ đó, LT đã đơn giản yên trí rằng, ông đã “đả thông tư tưởng”, thuyết phục được độc giả và người nghe đứng về phía ông để cho đấy là “sử liệu sống” của thời nay.
Tìm hiểu phản ứng của một số người giới hạn có dùng internet và đọc sách báo tiếng Việt thuộc mọi thành phần xã hội, tôn giáo, có biết đến LT và BĐMT thì được biết thái độ của họ đã thể hiện trong nhiều cách thế khác nhau:
- Những người tin những điều ông nói là đúng sự thật và lên tiếng thì đứng khắp mọi phía bên nầy, bên kia; đằng nầy, đằng nọ nên kết luận phía nầy lắm lúc trở thành câu hỏi của phía khác.
- Những người cho LT là dối trá thì phản ứng lạnh nhạt. Họ cho rằng đây chẳng qua là một cuộc đánh trống khua chiêng của LT tự quảng cáo mình một cách dễ dãi phù hợp với bản chất cố hữu của ông từ trước tới nay với sự hỗ trợ mạnh mẽ của nhóm “Phù Ngô phục hận” đầy bản lĩnh đang đứng ở hậu trường (?!)
- Những người có quan tâm mà im lặng thường không phải là họ không biết, nhưng chỉ vì vấn đề và hoàn cảnh chẳng đáng quan tâm nên không đáng nói mà thôi. Trong giới hạn của một bài viết ngắn dưới hình thức “đôi điều góp ý”, thay cho lời chào hỏi xã giao khách phương xa đến viếng vùng mình, người viết không có tham vọng và có lý do đứng ở một vị trí nào đó để làm công việc biện minh không cần thiết và phán xét chưa đủ căn cứ cho các nhân vật và hoàn cảnh đã được nêu lên trong BĐMT. Những nhân vật lịch sử và những ván bài thời cuộc xin trả về cho lịch sử sẽ phán xét công bằng và chung quyết. Đây chỉ là đôi lời dấy lên như một phản ứng “qua đường thấy việc bất bằng chẳng tha” mà thôi. Xin đi vào nội dung:
Điệp báo và nói láo:
Đó là nhan đề cuốn sách “Of Spies and Lies” của John F. Sullivan viết về mặt trận tình báo trong chiến tranh Việt Nam. Nội dung cuốn sách đã trực tiếp hay gián tiếp nhắc đến nhiều trường hợp các nhân sự Việt Nam trong giới thường dân, công chức, cảnh sát, quân đội… làm cộng tác viên, điểm chỉ viên với các đơn vị tình báo của Mỹ đã bị các đơn vị đặc nhiệm phản tình báo của CSVN đánh tráo tin tức. Sự đánh lừa trong nhiều trường hợp đã tạo ra những nguồn tin sai lạc nhằm gây mâu thuẫn, phân hóa, chia rẽ, hạ bệ và bôi đen phẩm cách của những nhân vật “bị” nổi tiếng mà xét ra không có lợi cho ý đồ lâu dài trong sách lược chiếm trọn miền Nam của họ. Giới tình báo hành chánh bị lừa ngồi trong công sở và bàn giấy chỉ việc rung đùi nghe báo cáo từ các cộng tác viên, yên chí lớn là đã “nắm vững tin tức tình báo” để phản ứng. Thái độ chấp nhận vấn đề – dối trá hóa thật – mà cứ mang ảo tưởng là nắm vững và giải quyết được vấn đề đã góp phần tạo nên những tai họa cho địa phương và cả miền Nam sau nầy.
Đọc phần nói về vai trò tình báo bao quát trong mọi lĩnh vực, thấu suốt mọi vấn đề, nắm vững mọi hoàn cảnh, thấy được mọi ngõ ngách bao gồm luôn cả ta, địch và đồng minh của LT trong BĐMT, người đọc có cảm tưởng như đang coi chuyện võ hiệp kỳ tình. Trong đó, chưởng môn LT ngồi trong trướng võ đàn mà thấy hết hoàn toàn thiên hạ sự. Vì vậy, có thể tạm gọi BĐMT là một tập “hồi ức tạp ghi”… nghĩ chi nói nấy của tác giả LT; còn rất xa mới đủ tính khả tín của chứng tích và sử liệu.\
Được biết LT lên tiếng là chỉ chấp nhận tranh luận “sự nghiệp tình báo” của ông với những người ở trong lĩnh vực tình báo mà thôi (?!). Riêng kẻ viết những dòng nầy chẳng thuộc nòi hỗ báo, tình báo gì cả; nhưng chưa hẳn là kẻ “ngoại đạo” trong lĩnh vực  nầy. Không biết nên chăng cần hé chút tâm sự riêng rằng, tôi đã từng dịch những hồ sơ “classified” cho Peter Downs, giám đốc cơ quan xã hội Tin Lành Việt Nam (VNCS: Vietnamese Christian Social Services) suốt mấy năm liền song song với nghề dạy học. Sau nầy mới biết ông ta là cục phó CIA đặc trách miền Trung. Vì chỉ “dịch nhi bất tác” nên sau 1975, tôi chỉ bị đuổi dạy, lái xe lam mà khỏi đi tù. Tôi có hai người anh ruột. Ông anh cả là chỉ huy trưởng lực lượng Biệt Kích Dù lần lượt ở các trại Biệt Kích trọng điểm như Thượng Đức, Khâm Đức và Khe Sanh, gắn liền số phận sinh tử với các tổ nhảy toán tình báo vào đất địch. Anh đã tử trận ở Khe Sanh năm 1967 – “Biệt Kích Dù vị quốc vong thân!” Ông anh thứ hai cũng ở trong lĩnh vực tình báo của quân lực Việt Nam Cộng hoà (VNCH), làm ở phòng an ninh Không đoàn 41. Thời gian làm việc với P. Downs và hoàn cảnh anh em chia sẻ, thông tin thường xuyên cho nhau đã giúp tôi học hỏi, làm quen và có được cái nhìn không ảo tưởng về một thế giới mà người khí tiết, kẻ gian tà, nhóm trung thành, phường phản bội biến hiện, quần thảo nhau như bóng với hình thường khó lòng phân biệt. Đó là thế giới tình báo hay nhân danh tình báo. Và, thêm vào đó, bản thân tôi cũng là chuyên viên điều tra tòa án (court investigator) về các hồ sơ tội phạm ngược đãi thanh thiếu niên thuộc chương trình CPS của chính phủ Hoa Kỳ trong suốt 18 năm công tác liên tục tại Sacramento.
Học hỏi và kinh ngiệm đã chỉ cho tôi biết rằng, đánh giá kết quả tình báo, điều tra là nhìn vào thành quả chứ không thể căn cứ vào hiện tượng chiến thuật và sách lược biểu hiện đầy vẻ “dung dăng, dung dẻ” biến hiện không lường trên bề mặt nổi. Kiểu cách dùng lời lẽ đại ngôn để vẽ hươu, vẽ vượn cốt làm hoa mắt thiên hạ về những điều vừa mâu thuẫn, vừa không thể nào chứng minh được là một lối diễn xuất phường tuồng, chẳng dính dáng gì đến tổ chức tình báo và tác dụng của tình báo đích thực cả.
Hoàn cảnh thực tế của Thừa Thiên Huế trong thời kỳ LT làm trưởng ty cảnh sát chỉ còn cái lõi thành phố là tương đối còn an ninh trong phập phồng lo sợ. Có thể nói đây là thời kỳ tệ hại nhất về mặt an ninh của xứ nầy. Chiều chiều, từng đoàn người dân quê trong độ tuổi lao động từ các vùng nông thôn phải đạp xe đạp lên thành phố ngủ trọ qua đêm. Bốn phía đều trở thành những vùng xôi đậu, ngày Quốc gia, đêm Việt cộng. Đi xe đạp rời khỏi cột cờ Phu Văn Lâu chừng 10 phút ra khỏi giới hạn An Hòa, Bao Vinh, Chợ Dinh, Dạ Lê, Thủy Xuân, Phường Đúc… sau chạng vạng tối là đã nơm nớp lo sợ du kích cộng sản bắt cóc hay bắn sẻ bất cứ lúc nào.
Trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân, 1968 của CSVN trên toàn miền Nam thì Huế bị rơi vào tình trạng thê thảm nhất. Trên 5000 người dân vô tội bị thảm sát. Theo các nguồn thông tin đáng tin cậy thì thủ phạm điểm chỉ bắt người và giết người là những giao liên du kích cộng sản nội thành mà phần đông trước đó, đã quen đường thuộc lối, lên núi và về đồng bằng; vào thành phố Huế dễ dàng như đi chợ. Nếu LT có một mạng lưới tình báo “cái gì cũng biết” như ông nói thì thực tế đau thương của Huế tự nó đã phản bác nghiêm khắc lời tự phong vu vơ, hoàn toàn thiếu căn cứ của ông. Theo tác giả chuyên nghiệp tình báo về cuộc chiến Việt Nam, James J. Wirtz, viết trong sách “Tổng công kích Tết: Sự thất bại của tình báo trong chiến tranh” (The Tet Offensive: Intelligence Failure in War) thì tình báo Mỹ đã biết trước cuộc tổng công kích nầy từ tháng 11 năm 1967, nhưng chưa xác định được ngày giờ đích xác. Sự thất bại của tình báo Mỹ bắt nguồn từ sự thất bại của tình báo Việt Nam, mặc dầu đã biết trước sự cố từ hơn 3 tháng trước.
Sự đại ngôn thái quá của LT trong lĩnh vực tình báo đã gây tác dụng ngược cho các chi tiết về những nhân vật và hoàn cảnh mà ông đã đưa ra với dụng ý chứng minh, phân loại và phê phán theo quan điểm tố cộng cực đoan và bất nhất riêng của mình. Mức độ đáng tin cậy về tính chất thiện, ác; chánh, tà của người và việc trong BĐMT cũng theo sự thổi phồng sai sự thật đó mà rơi xuống mức độ thấp nhất, hay trong nhiều trường hợp  đã bị hiểu ngược lại. Chào mừng LT đến Sacramento, tôi chỉ muốn nhắc với người anh em đồng hương, đồng tuổi, thuộc dòng dõi quý tộc triều Nguyễn rằng, bản chất của tình báo là sự thông minh (intelligence) chứ chẳng phải là ngược lại.
Trả lời và câu hỏi:
Như đã xác định theo tiêu đề của bài viết, đây chỉ là đôi điều góp ý ngắn gọn. Muốn phân tích và chia sẻ cho thấu tình đạt lý về vấn đề BĐMT với LT thì ít nhất cũng cần vài ba trăm trang như có người đã viết, vì nó liên quan đến quá nhiều nhân vật, nhiều sự cố đã thành cố sự. Do đó, tôi chỉ đi thẳng vào trọng tâm của vài ba vấn đề tiêu biểu.
Trước hết là vấn đề Phật giáo với cộng sản. Phật giáo Việt Nam (PGVN) – nói chung chứ không phải là giáo hội PGVN thân chính quyền đang hiện diện trong nước – cơ bản theo tinh thần Đại Thừa. Đạo Phật đi vào cuộc đời hiện thực nên có sự tương tác tùy duyên giữa đạo và đời; đời và đạo. Tinh thần nhập thế của đạo Phật Việt Nam đã được thể hiện hài hòa từ thời Lý Trần. Vua Trần Nhân Tông là một thiền sư. Nhưng khi cần, vua cũng cầm quân ra trận đánh tan quân xâm lược Mông Nguyên. Khi thanh bình trở lại, vua treo kiếm, coi chuyện công danh như đôi dép bỏ, lên Trúc Lâm Yên Tử tu hành giác ngộ. Đạo Phật Việt Nam uyển chuyển như một dòng sông; đi song song với dòng lịch sử dân tộc nên phải chảy qua những chặng đường quanh co, khúc khuỷu theo vận nước thăng trầm. Nhìn đạo Phật mà chỉ nhìn vào một giai đoạn, một bộ phái, một tổ chức hay một phong trào riêng lẻ nằm trong toàn thể sinh hoạt Phật giáo, rồi vội vàng kết luận đạo Phật như thế này, như thế kia… là nhìn biển qua sóng, nhìn sông qua bèo; nên có nhìn mà không thấy!
Khi Việt Minh (tiền thân CSVN) dấy lên phong trào toàn quốc chống Pháp vào mùa Thu năm 1945, những người Việt Nam yêu nước không phân biệt khuynh hướng, thành phần, giai cấp xã hội đều lên đường tham gia kháng chiến. Lịch sử còn ghi lại những hình ảnh cảm động của xóm đạo Tha La. Tuy đạo Thiên Chúa chịu nhiều ân nghĩa với Pháp, nhưng năm 1946, thanh niên xứ đạo Tha La bỏ ruộng vườn, xóm đạo lại đằng sau; Linh mục Nguyễn Bá Kính cũng cởi áo lên đường cứu nước. PGVN với lịch sử gắn liền với vận nước nên nhiều nhà sư từ Bắc chí Nam cũng đã tham gia những phong trào cứu quốc nên đã bị Pháp gọi là “Giặc Thầy Chùa”!
Sau thời kỳ Việt Minh trở thành CSVN thì sự hệ lụy giữa tôn giáo và chính trị kéo dài khi nổi, khi chìm; nhưng chưa bao giờ đạo Phật quay lưng với đất nước và dân tộc.
Trong BĐMT, LT đã nhìn thấy cộng sản khắp nơi. Điều nầy đúng. Khắp miền Nam, từ phủ tổng thống đến các nha, sở, bộ; trường học, chùa chiền, tu viện; thậm chí tư thất, tư dinh đều có cộng sản len lỏi vào. LT chọn bối cảnh cho “biến động miền Trung” bằng cách cắt một mảnh cuối cùng trong cuộc chiến Việt Nam từ 1963 đến 1975. Nghĩa là từ khi có phong trào tranh đấu Phật giáo và Ngô triều bị sụp đổ cho đến khi CSVN chiếm hết miền Nam.
Nội dung và chủ đích chính của LT và cái “Think Tank” (bồn trí tuệ) sau lưng ông là trang hoàng, sơn phết, làm đầy cho một cái khung định kiến đã đúc sẵn. Cái khung khép lại chỉ đơn giản như thế nầy:
Phật giáo + Cộng sản = Đảo chánh nhà Ngô + Mất miền Nam.
                                                                                           
               
(Cảnh biểu tình của Phật Giáo Đồ chống chế độ Ngô Đình Diệm kỳ thị Phật Giáo)
          Đó là… cứu cánh của cách đặt vấn đề trong BĐMT. Mọi phương tiện dầu đúng, dầu sai, dầu hay, dầu dở đều là phương kế khả thi nếu nó phục vụ cho cứu cánh đã đặt định. Điều khó hiểu nhất đối với một người đọc trung bình là có chăng trăm nghìn sự kiện mâu thuẫn và cách hành xử nghịch lý như những điều LT đã diễn tả trong BĐMT đã thực sự diễn ra tại miền Nam? Những thắc mắc chính đáng của độc giả đã thể hiện qua
  
     Ngô Đình Diệm hôn tay HY Spellman                      HY Spellman
những câu hỏi cụ thể, đại khái như: Tại sao một trưởng ty cảnh sát nhỏ bé như LT lại có quyền lực khắp nơi, khắp chốn như vậy? Tại sao một nhân viên cấp tỉnh như LT lại có uy quyền trên cả hàng tổng, bộ trưởng? Tại sao một hệ thống quân giai có kỷ cương như quân lực VNCH lại để cho một viên thiếu tá địa phương như LT có quyền hành xử tùy tiện và bất chấp như thế? Chỉ có một trong hai bên đúng: Hoặc là giới lãnh đạo quân đội và dân sự miền Nam hoàn toàn vắng bóng; hoặc là LT nói sai sự thật. Nói cường điệu quá đà toàn những chuyện không thật thì người Huế gọi đó là nói “phách tấu !” Mà lẽ nào người Hoàng phái như LT lại đi nói điều phách tấu?!
Có thể nói những tiết mục hấp dẫn nhất trong BĐMT là những màn “tình báo nổi”. Trong kỹ thuật tình báo kinh điển có nói đến phần nhận diện nhân dáng và quan sát tang vật hiện trường như một nghệ thuật “warm up” (hâm nóng) ban đầu để đo lường phản ứng của nhân vật; chuẩn bị tinh thần cho một tiến trình tra vấn tiếp theo. Nhưng không biết LT đã tốt nghiệp ở trường tình báo nào mà thường khi lẫn lộn giữa kỹ thuật nhận diện với tiểu xảo coi tướng của các ông thầy bói xem giò gà xứ Huế theo kiểu xếp bộ “mắt trắng môi thâm”, “tai dơi mặt chuột”… để sơ kết bản chất của những nhân vật mà ông sắp sửa kết án (nhưng chưa chắc đã thấy bao giờ). Cũng theo nguyên tắc tình báo quốc tế thì sự lẫn lộn giữa định kiến, cảm tính và lý tính sẽ “nullification” (vô hiệu) kết quả điều tra.
Trong số nhiều khuôn mặt được ông đưa ra tố cộng trong BĐMT, có hai nhân vật Phật giáo được LT chiếu cố tận tình nhất là thầy Trí Quang và thầy Đôn Hậu. Gần nửa thế kỷ trôi qua, nhưng nhân vật Thích Trí Quang vẫn còn là một đối tượng tham khảo và phân tích của các học viện chính trị, nhân chủng và xã hội quốc tế, nhất là ở Mỹ. Mọi sự suy diễn đơn giản và phiến diện về nhân vật nầy là một trường hợp “nullification” dữ kiện đáng tiếc mà tôi đã có dịp nói ở trên.
Gần 30 năm trước, lúc mới chân ướt chân ráo đến Mỹ thì tôi đã đọc một bài viết xuất phát từ vùng Tiểu Sài Gòn nói rằng, thầy Trí Quang là trung tá Việt cộng. Ngày CSVN chiếm Sài Gòn, thầy mang lon đội mũ trung tá cầm cờ chạy rông ngoài đường phố hoan hô quân miền Bắc. Tin tức kiểu tiếu lâm AVT đó, nay mới nghe lại LT lập lại trong BĐMT! Không có gì thú vị và “xả hơi” hơn khi đọc về nhân vật Thích Trí Quang qua màn tình báo LT. Nguồn tin tình báo LT cho rằng, thầy Trí Quang là đảng viên cộng sản. Rằng, thầy là cộng sản gộc, nhận chỉ thị trung ương Đảng đứng ra sách động phong trào đấu tranh Phật giáo. Đi xa hơn nữa, LT còn viết là thầy Trí Quang có người yêu già nhân ngãi non vợ chồng là một cô bé làm thị giả 13 tuổi. Có lý nào LT là cháu của danh tăng Thích Tịnh Khiết lại hiểu tổ chức Phật giáo Huế có tiếng về giới luật khắt khe, nghiêm ngặt một cách quá nông nổi và sai lạc đến như thế. Trong tổ chức Phật giáo làm sao lại có chuyện tréo cẳng ngỗng “thị giả” nữ 13 tuổi bên cạnh một thượng tọa là thế nào? Chưa hết, LT còn kể là ông đã cãi lệnh tướng tư lệnh cảnh sát Nguyễn Ngọc Loan, vào lục soát phòng riêng của thầy Trí Quang và tìm thấy một bằng chứng hùng hồn cho sự nghiệp tình báo của ông là một cái xì líp đàn bà. Tưởng tượng vượt quá giới hạn đạo lý sẽ trở thành vô luân.
Thầy Trí Quang là một tu sĩ nổi bật trong cuộc đấu tranh Phật giáo 1963. Thầy được (hay bị?) báo chí Âu Mỹ và Việt Nam khai thác triệt để; hình thầy xuất hiện trên trang đầu của những tờ báo lớn như Time, FP với những lời bình luận nóng hổi. Đa số những bài viết đều có một điểm chung khá tương tự về khuynh hướng Dân Tộc của thấy Trí Quang: Không lệch theo con đường duy vật vô thần của khối Cộng sản; mà cũng chẳng nghiêng về con đường duy linh nhất thần của khối Tư bản. Thầy đứng giữa “hai lằn đạn”. Bên tả cho thầy là CIA, bên hữu cho thầy là Cộng sản.
Biến động 1966 phát xuất từ nguồn gốc là người Mỹ đã chuyển hướng biến Miền Nam thành kho súng đạn sau khi xoa tay bức tử triều đại Ngô Đình. Mỹ không muốn mất thời gian tái tổ chức một xã hội miền Nam theo mẩu mã dân sự ổn định như Hoa Kỳ mà nóng lòng muốn dứt điểm cuộc chiến Việt Nam để ôm Trung Quốc bằng cách quân đội hóa toàn miền Nam. Mỹ là chuyên viên dựng lên những chính quyền quân sự ở các nước chậm tiến và bất ổn như một sự dằn mặt giới lãnh đạo đương quyền do Mỹ hỗ trợ rằng, hãy khôn hồn, đảo chánh và lật đổ có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Tại sao một miền Nam đang đối đầu với một đối thủ có bộ máy chính trị quá chặt chẽ như miền Bắc mà đồng minh Hoa Kỳ lại áp dụng một sách lược “ăn xổi ở thì” như vậy? Những chính khách miền Nam chống cộng không nằm trong guồng máy hành chánh quân sự đều có chung mối quan ngại như thế.
Thầy Trí Quang và một số các nhà sư Phật giáo đã đứng lên đòi hỏi một hiến pháp và một sách lược mới thích hợp cho chính thể VNCH ổn định và có thực lực tại miền Nam trong thời điểm 1966 là đi ngược lại sách lược của Mỹ đang triển khai tại vùng châu Á Thái Bình Dương. Đồng thời, CSVN cũng thấy được nguy cơ của một miền Nam ổn định. Trong lúc đó, Kissinger đang đi đêm thương thuyết với Bắc Kinh và thuyết phục nội các Johnson bỏ rơi miền Nam. Vô hình trung, nhân vật Trí Quang trở thành đối đầu cùng lúc với cả Mỹ lẫn CSVN. Và khi Mỹ đã bật đèn xanh với túi đô la lè kè bên cạnh thì dẫu cho họ có muốn sông cạn núi mòn trong chớp mắt cũng chẳng có gì là khó. Đã có quá nhiều tài liệu công bố nói rằng, Mỹ đã cho nhân vật Trí Quang một trong ba sự chọn lựa là: Im lặng bó tay vào chùa dịch kinh niệm Phật, lưu vong sang Hoa Kỳ hay về thăm… cụ Diệm (?!)
Trong suốt 40 năm qua, thầy Trí Quang sống yên lặng trong chùa, “thủ khẩu như bình, thủ ý như thành”. Tất cả về thầy Trí Quang sau 1975 mà tôi được biết là hai tác phẩm dịch thuật. Một là bản dịch kinh Kim Cương, 263 trang, do Mai Lan Lệ Ấn hải ngoại ấn hành năm 1987. Hai là bản dịch kinh Diệu Pháp Liên Hoa, 1162 trang, cùng nhà xuất bản năm 1996.
Nhân vật thứ hai được LT mang ra trình làng là thầy Đôn Hậu. Hành tung và sự nghiệp của thầy được LT mô tả trong BĐMT thảy đều là “Việt cộng toàn ròn”. Rốt lại còn “dễ sợ” hơn là thầy Trí Quang!
Ông Đỗ Trung Hiếu, bí danh Mười Anh, người Quảng trị, đảng viên cộng sản thâm niên, được Đảng giao làm công tác Tôn giáo vận, một thời là kiến trúc sư Phật giáo Nhà nước đã khách quan nhận định rằng, thầy Đôn Hậu bị phe Cách mạng cưỡng ép đưa lên núi sau vụ Tết Mậu Thân ở Huế và đem ra Hà Nội trong thời gian chiến tranh, gán cho chức Ủy viên Cố vấn Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam; năm 1976 là đại biểu Quốc hội khóa 6 và Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc. Nhưng một thời gian sau, để phản đối việc chính quyền cộng sản đàn áp Phật giáo ở miền Nam, thầy Đôn Hậu đã công khai bằng văn thư từ bỏ hết mọi danh vị và chức tước bị gán nói trên. Thầy cực lực chống đối việc thống nhất Phật giáo thành Phật Giáo Việt Nam (thường gọi là Phật giáo Nhà Nước hay Phật giáo Quốc doanh) để làm công cụ chính trị cho đảng Cộng sản. Thầy giữ vững lập trường này cho đến ngày viên tịch (23.4.92). Ý hướng của thầy đã biến thành hành động cụ thể. Cuối đời, thầy Đôn Hậu đã phó thác ấn tín lãnh đạo Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (PGVNTN) lại cho thầy Huyền Quang.
          Trong truyền thống Phật giáo, truyền y bát cho nhân vật lãnh đạo kế thừa đồng nghĩa với sự phó thác tâm phúc nhất niềm tin và lý tưởng vào sự nghiệp hành đạo độ sanh của người kế vị. Với ý nghĩa đó, tưởng cũng nên khách quan tìm lại những nét tiêu biểu nhất về chí hướng của nhân vật thừa kế thầy Đôn Hậu trong PGVNTN. Trong cao trào kháng chiến chống Pháp năm 1945, như tôi đã lược trình ở trên, thầy Huyền Quang tham gia Phật Giáo Cứu Quốc Liên Khu 5 trong những ngày đầu của cao trào yêu nước chống ngoại xâm. Năm 1951, thầy bị Việt Minh lúc bấy giờ đã biến tướng thành CSVN bắt giam lỏng 4 năm vì phản kháng quyết định độc đoán biến Phật giáo thành hội đoàn của cộng sản. Năm 1963, thầy Huyền Quang là tổng thư ký của Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo, làm việc trực tiếp với Uỷ Ban Liên Bộ của chính phủ tổng thống Ngô Đình Diệm. Năm 1977, thầy Huyền Quang bị CSVN bắt biệt giam cùng với các thầy Thiện Minh và thầy Quảng Độ. Năm 1992, sau khi được sự phó thác của thầy Đôn Hậu trở thành người lãnh đạo kế nhiệm của PGVNTN, thầy Huyền Quang đã viết yêu sách 9 điểm, nêu lên những sai lầm của nhà cầm quyền và yêu cầu nhà nước CSVN phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng. Kết quả là thầy đã bị CSVN quản chế cho đến ngày viên tịch (5-7-2008). Ngoài ra, những tu sĩ Phật giáo ở vị thế lãnh đạo khác trong phong trào đấu tranh Phật giáo mà LT cho là do cộng sản dựng lên cũng đã bị CSVN ngược đãi, giam cầm như: Thầy Thiện Minh (chết bí mật năm 1978 sau thời gian bị giam cầm).    
Thầy Quảng Độ, thầy Đức Nhuận cũng bị tù tội triền miên.
           Một nhà văn nào đó đã kêu lên: “Trong cảnh tranh tối tranh sáng nầy, anh em nhìn rõ mặt nhau thật khó!” Nhìn rõ nhau đã khó, phán xét đúng càng khó hơn.
       Đôi điều với Liên Thành:
Sau 35 năm im lặng, khi LT lên tiếng để xác nhận sự hiện diện của mình nơi đất khách thì tiếng nói của ông cũng đã lạc hậu mất 30 năm! Những ngày đầu sau 1975, người dân miền Nam hầu hết đều ngỡ ngàng trước thực tế. Câu hỏi lớn nhất vẫn là tại sao quân lực VNCH với phương tiện thủy, lục, không quân còn nguyên vẹn lại phải bị bức tử bỏ cuộc?]
      
                                                            
        Bác sĩ Erich Wulff Tiến sĩ Y khoa năm 1960. Ông làm giảng sư tại Đại học Y khoa  Huế từ năm
       1961 đến 1967 và bắt đầu dấn thân chính trị để báo động thế giới về cuộc thảm sát đêm Phật đản
        1963 tại đài Phát thanh Huế (từ trái-BS.Erich Wulff   và TT.Trí Quang,- TT.Trí Quang đón tiếp
                                                         BS Wulff tại chùa Từ Đàm Huế 1964 )
Khi ra nước ngoài, những thư viện lưu trữ tài liệu về chiến tranh Việt Nam phần lớn nghiêm túc và đáng tin cậy trong các trường đại học Mỹ mà tôi đã theo học và giảng dạy; kết hợp với phương tiện truyền thông đại chúng tại các nước tự do Âu Mỹ về Việt Nam phong phú đã giúp tôi tìm hiểu sự thật nên xin được bày tỏ sự bất đồng hoàn toàn với những điều mang tính “hồi ức” và suy diễn theo cảm tính bốc đồng của LT trong BĐMT. Sự kiện lịch sử đã nói lên quá rõ rằng, đồng minh Hoa Kỳ đã bỏ miền Nam vì quyền lợi của chính đất nước họ với đối tác mới Mỹ-Trung; cũng như trước đó, họ đã quyết định thay ngựa giữa dòng với chính quyền tổng thống Ngô Đình Diệm. Mỹ đã thực hiện rốt ráo nguyên tắc chi phối chính trị của họ trên toàn thế giới: Ai làm chủ túi tiền, người đó là vua. Chiến tranh và chính trị cũng chỉ là một hình thức “thương vụ” quốc tế. Có lời thì tiếp tục kinh doanh mà thua lỗ thì dẹp tiệm. Khi Mỹ đã quyết định thì họ đóng vai nguyên nhân, tất cả còn lại chỉ là nguyên cớ.
Trước khi phong trào tranh đấu Phật giáo phát khởi tại Huế thì Mỹ đã quyết định thay chính quyền tổng thống Ngô Đình Diệm vì tâm huyết sâu sắc, lòng yêu nước đậm cốt cách liêm khiết Nho phong và cách dùng người nhân hậu của Cụ đã bị nịnh thần và phản thần chuyên quyền lợi dụng. Nhất là ở miền Trung, tham vọng quyền lực và vật chất của thế lực gian thần ngày càng tác oai tác quái đã làm mờ đi chính nghĩa của cụ Ngô. Niềm tin khô cạn, nhân tâm lý tán. Thực trạng nầy làm chậm bước tiến chinh phục ảnh hưởng toàn vùng châu Á Thái Bình Dương của Hoa Kỳ nên sự thay thế lãnh đạo là điều không tránh khỏi. Khi đèn xanh đèn đỏ của phú ông chi tiền đã chớp thì nếu không có phong trào Phật giáo nầy, cũng sẽ có vô số những phong trào tương tự khác, mang biển hiệu và màu sắc khác rộ lên.
Ngày 29-3-1973, cả miền Nam có bóng dáng ông sư bà vải nào lên tiếng đâu, thế mà Mỹ vẫn đơn phương hoàn toàn rút quân ra khỏi Việt Nam. Nguyên nhân ở tận Washington  DC và Bắc Kinh chứ không phải ở Huế, Sài Gòn hay nằm trong đống hồ sơ vụn vặt của một ông trưởng ty tỉnh lẻ như Liên Thành. Trâu bò đại khánh, ruồi muỗi đánh nhau. Thảm trạng của thân phận nhược tiểu xưa nay là thế. Hoặc vì không đầu tư học hỏi nghiêm túc, không chịu tham khảo tới nơi tới chốn; hoặc vì một động cơ khó hiểu hay dễ dãi nào khác đã khiến Liên Thành đang đứng ở ngã tư thế giới nhưng vẫn tưởng như còn đang đứng ở Ngã Ba Bánh Bèo xứ Huế “mô rứa răng ri, thích chi noái nấy” qua 400 trang của BĐMT! Vì không dụng công, LT đã nhìn Phật giáo qua nhãn quan một chiều, qua sự hiểu biết giới hạn và qua nhận thức đóng khung của một viên cảnh sát trưởng địa phương. LT đã mang định kiến xào trộn với mớ hồ sơ vi cảnh và cái gọi là “tình báo” đầy hoang tưởng để cột buộc Phật giáo với cộng sản.
Hồi ký của những nhân vật trùm cuộc chiến Việt Nam, có đủ kiến văn, dữ liệu và thẩm quyền để nói như McNamara (viết trong In Retrospect), Kissinger (trong Diplomacy), Rusk (trong As I saw It), Nolting (trong From Trust to Tragedy)… Hay gần gũi với thế giới người Việt hơn là các hồi ký của hơn 20 nhân vật người Việt đã từng ở vị thế lãnh đạo trong cuộc chiến và thời kỳ cận đại, từ cựu hoàng Bảo Đại (Con Rồng Việt Nam) viết về thời kỳ 1913-1987; đến tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, cố vấn cho tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, (Khi Đồng Minh Tháo Chạy) viết về giai đoạn Mỹ tham chiến ở Việt Nam cho đến năm 1975 là những tư liệu lịch sử và chính trị đáng tham khảo. Thế nhưng khi viết về những sự kiện có liên quan đến thời kỳ biến động trong cuộc chiến và phong trào Phật giáo thời 1963 vẫn còn nhiều dè dặt và giới hạn. Tác giả cũng như độc giả khi được phỏng vấn, đều có chung sự suy nghĩ rằng, những hình ảnh và chứng liệu cụ thể nặng tính dữ kiện và sử liệu khoa học vẫn còn chưa đủ tầm cỡ để nhận định và đánh giá chân xác, khách quan về bối cảnh và nhân vật liên quan đến những cuộc biến động miền Trung. Mớ tài liệu nhếch nhác chạy giặc mang theo, tầm hiểu biết hạn chế, vị trí nhỏ bé và hồi ức tuổi già của LT đã đưa ông đến chỗ can đảm một cách thảm hại không đúng thời, đúng chỗ, đúng đối tượng đã làm cho độc giả, ngay cả những chiến hữu một thời thân cận nhất của LT, thất vọng.
Đây chưa phải là bài điểm sách và cũng chẳng phải là bài phản hồi nghiêm túc tương xứng với vấn đề đặt ra mà chỉ là đôi điều góp ý. Cũng xuất thân là một người con trai đàn ông Huế như Liên Thành, điều góp ý gần gũi nhất là những gì liên quan đến quê hương xứ sở mình. Huế nghèo nhưng thanh bạch. Thanh bạch trong cách sống và trong lời nói. Người bốn phương yêu Huế vì cái phong cách Huế mà đặc biệt là sự tao nhã, tính văn hóa và dáng vẻ khiêm cung trong ngôn ngữ. Rất tiếc là LT rời Huế quá sớm nên không chứng kiến được sự dị ứng và trăn trở của Huế sau ngày miến Bắc thắng trận. Đó là khi một thiểu số thành phần xuất thân giữ trâu, giữ bò vô học trở thành người chiến thắng, có chút thế lực trong tay ngông nghênh dùng lời lẽ hạ cấp bất xứng với người thất thế. Những người này đã gọi là “thằng”, là “hắn” là “lũ” là tên nầy tên nọ tuốt luốt như: “thằng Mỹ, thằng Ngụy…” với những người đáng tuổi cha ông của mình ở miền Nam bị liệt vào thành phần Mỹ, Ngụy; ngược lại thì cũng tương tự như những người mà LT liệt vào thành phần cộng sản trong BĐMT. Loại ngôn ngữ hằn học, thô lỗ, thiếu văn hóa đó đã bị không những Huế mà tất cả người miền Nam khinh bỉ và lên án. Dẫu có ngoan cố bào chữa cách nào cũng không ai chấp nhận nên cuối cùng họ phải bỏ đi. Tôi hơi ngỡ ngàng khi bắt gặp loại ngôn ngữ thô bạo này trong BĐMT mà LT đã dành cho bất cứ ai, kể cả thầy dạy học cũ của mình, các vị tu sĩ Phật giáo cao niên, những nhân vật lớn nhỏ mà ông đã quy kết là cộng sản, theo cộng, hay thân cộng. Xuất thân là một sĩ quan, một sinh viên đại học Huế, một người Hoàng phái danh gia tử đệ mà vô tình ông Liên Thành đã dẫm lên vết chân của những người thuộc thành phần thấp kém từ Bắc mới vô Nam năm 1975 thì quả là điều xót xa và đáng tiếc! Qua Mỹ đã hơn 30 năm và đã từng làm trong nghề an ninh trật tự xã hội, ông LT cũng hiểu ít nhiều về nguyên tắc luật lệ và trật tự của một xã hội có văn hóa và văn minh: Dẫu là người phạm tội rành rành nhưng chưa có phán quyết của tòa án thì vẫn còn là nghi can. Nhưng cho dẫu là tội phạm chăng nữa thì cũng phải đối xử công bằng và nhân bản. Lẽ nào LT không biết hay quên?!
Được hân hạnh đón LT về thăm vùng đất tỵ nạn của mình đã sống trong hơn hai chục năm qua, tôi chỉ ước mong những người cùng thế hệ, cùng chịu chung nỗi vinh nhục của quê hương gặp nhau, nhìn nhau và thấy được nhau.
Là một Phật tử độc lập, tôi chỉ biết theo giáo lý nhà Phật để tự giáo hóa chính mình tìm sự an lạc như phần đông các Phật tử xuất gia và tại gia khác. Có thêm được chỗ dựa tinh thần và năng lực hóa độ của tăng ni đạo cao đức trọng vẫn là ân đức mong tìm của người Phật tử. Cho nên tôi vẫn thường lập đi lập lại hoài như một lời tâm niệm về hình ảnh đạo Phật là một biển thái hòa an lạc. Nước của trăm nguồn đổ về biển cả, dẫu cho trong sạch hay dơ bẩn đến mức độ nào thì cuối cùng cũng được hóa giải. Trên đường tìm cầu học hỏi, chúng tôi không ngây thơ cho rằng, tất cả tăng ni qua hình tướng đầu tròn áo vuông đều là thánh tăng hay chân tăng. Nhất là trong thời đại “kinh tế thị trường” vàng thau lẫn lộn nầy thì nhìn rõ chân tướng của nhau thật khó. Ai không an trú trong giới luật, sẽ thọ lãnh nghiệp quả của mình. Tiền thân của đức Phật là bồ tát Thường Bất Khinh. Gặp bất cứ ai, ngài cũng cất một lời khiêm tốn: “Thưa ngài, tôi không dám coi nhẹ ngài vì ngài là một đức Phật tương lai!” Nhân danh là những nguời Phật tử, chúng ta có thể nói với nhau một lời đơn giản mà sâu dày như thế được chăng.
Trần Kiêm Đoàn
    Sacramento, cuối Thu 2009