Tuesday, May 31, 2011

GIỌT NƯỚC MẮT CHO QUÊ-HƯƠNG



Tống Phước Hiến


.. Ðến bao-giờ lấy lại được Giang-san!
Chế-độ nầy trâu ngựa sống không an,
Sài-lang đã dựng xong nền thống-trị.
Ai đứng dậy diệt trừ lũ quỷ ?
Ai trái tim lân-mẫn vạn dân tàn.
Miền Nam ơi, từ buổi tiêu tan,
Ta sống trọn vạn ngàn cơn thác loạn.
Nguyễn-Chí-Thiện.

Việt Nam Quốc Dân Ðảng thực sự đi vào đời sống tình cảm, ý chí thuở tôi còn mài miệt sách vở học trò. Khởi đầu bằng bài trần thuyết về Việt Nam Quốc Dân Đảng mà cuộc khởi nghĩa Yên Bái và sự trở về lòng đất Việt của mười ba vị tuấn-kiệt là trọng tâm. Ôi đất-nước oai linh từ buổi hồng hoang đã được bảo vệ và thắm đượm bởi vô vàn mồ hôi, trí tuệ và máu lệ của hàng hàng lớp lớp Tiền nhân hiệt kiệt và chiến sĩ anh hùng vô danh trải dài nối tiếp hy sinh, đấu tranh không ngưng nghỉ ! Giọt nước mắt thán phục, giọt nước mắt cảm kích thân phận quê hương. Giọt nước mắt kiêu hãnh giống giòng oanh liệt từ thời niên thiếu ấy thấm loang trên giấy trắng học trò. Chính giọt nước mắt nầy đã dẫn dắt tôi đến với bạn bè cùng trang lứa đối mặt với quân thù.

Thế hệ chúng tôi phải đương đầu với lắm kẻ thù. Chúng tôi phải quyết liệt đấu tranh để thắng cái bản ngã thấp hèn tự tại trong mỗi cá-nhân của kiếp người; phải chấp-nhận thua thiệt mới giữ vững ý thức và trận tuyến.

Cùng một lúc, chúng tôi phải đương đầu với hai kẻ thù có cả sức mạnh vũ khí, quyền-lực, lẫn xảo quyệt! Bề mặt, chúng cũng nhân-danh Tổ-Quốc, Công-lý… để tận diệt nhau, giành lấy phần thắng duy nhất. Ðôi khi vì sinh tồn, cần phát-triển thế-lực nên có khi chúng mặc cả, liên-minh !

Thế-lực hung hãn trước hết là bọn Cộng-sản (CS) ác-độc, oan nghiệt.

Thế-lực thứ 2 là bọn gian-manh nguy-hiểm, bọn núp bóng, trá hình Quốc-Gia. Chúng ở ngay trong hàng ngũ chúmg ta, có khi chúng lãnh-đạo cuộc chiến-đấu. Vì chúng, mà Chính-Nghĩa Quốc-Gia (CNQG) có lúc bị lu mờ, cộng-đồng QG chân-chính bị đánh giá sai lạc là: chia-rẻ, không quyết-tâm… Cả hai thế-lực nầy đều vô-liêm-sĩ, đều tội-đồ Dân-tộc. Nhưng với niềm tin sắt đá vào lẽ tất thắng của CNQG nên chúng tôi quyết đi, đi hết đời mình, đi với đồng-đội, kiên tâm bảo-tồn hương-hỏa Tổ-tiên.

Ðảng sử VNQDÐ là những trang sử kiêu-hùng bi-tráng, chất-ngất ý-chí sắc-son dũng-cãm, viết nên bằng huyết lệ VN với ba cương-lĩnh căn-bản:

- Dân-Tộc Ðộc-Lập
-Dân-sinh hạnh-phúc.
-Dân-quyền tự-do.

VNQDÐ huy-động lưc-lượng Dân-tộc trong tiến-trình đánh đuổi ngoại-xâm. xây-dựng Tổ-quốc. Ba cương lĩnh VNQDÐ triệt-tiêu ba độc-quyền CS:

-Ðộc quyền ý-thức-hệ chính-trị, thiết-lập chế-độ chuyên-chính cầm quyền.
- Ðộc quyền các phương-tiện truyền-thông, giáo-dục và luật-pháp.
- Ðộc-quyền kinh-tế và mọi quan-hệ về phương-thức sản-xuất và tiêu dùng.

Ba cương-lĩnh VNQDÐ và ba độc quyền CS mãi mãi là hai đối lực tìm cách tiêu-diệt nhau. Ðó là hai nguồn ý-thức đối chọi nhau quyết-liệt như trắng đen, nước lửa, ngày đêm, no đói, sống chết, như đoàn tụ với chia-ly, như hạnh-phúc với khổ đau… không thể nào và không bao-giờ pha trộn để hòa hợp hòa giải được.

Cuộc đấu-tranh khốc-liệt của Người QG nhằm đi đến mục-tiêu hướng về Chân, Thiện, Mỹ chôn vùi bao ác độc, nghiệt-ngã, bạo-tàn; tiêu-diệt cái phi Ðạo-lý, phi Tổ-Quốc của CS. Ðiển-hình cho hai lực lượng ấy là VNQDÐ cùng với nhân-dân Việt-Nam hợp cùng nhân-loại vì lương-tâm quyết-liệt tận diệt thế-lực gian-tà, hôn ám CS, và bọn xu nịnh, lưu manh hám danh hám lợi.

Dù bản án tử-hình đệ-tiện, dù ngục-tù man rợ, bọn CS vẫn không ngăn chận được bước tiến của bao Liệt-sĩ, Chiến-sĩ vì Quê-hương dấn-thân.

Dù chiến-trường tấn-công bọn CS ở khắp mọi nơi đều chiến-thắng và mang lại nhiều thành-quả đáng kể.

Dù chúng ta nhận-diện được bộ mặt ghê tởm của những kẻ tuy đồng chủng nhưng vì lợi danh, vì quyền-lực biến chúng thành những tên ác quỷ sống bám trên máu xương, lầm than của đồng-bào.

Tất cả dường như sẵn sàng trở nên những cơn địa-chấn, những cơn hồng-thủy khủng-khiếp những trận cuồng phong cuốn trôi và chôn vùi CS xuống đáy đại-dương. Nhưng thực-tế, mãi đến hôm nay; Ðất Nước, Quê-hương vẫn tiếp tục thấm loang nước mắt. Máu lệ và oán hận của Dân-tộc vẫn còn chảy. CS vẫn còn là tai ách, là quốc-nạn. CS vẫn tồn tại như một thách-thức, một Quốc nhục !? Đau đớn thay thế lực chúng vẫn còn vững mạnh !

Ước nguyện :

- Dân Tộc Ðộc Lập
- Dân Sinh Hạnh Phúc
- Dân Quyền Tự Do

Còn quá xa, còn là khát-vọng, còn là lý-tưởng ?

Tại sao chúng ta chưa vùi lấp được ba độc quyền ngang-ngược, gian-manh và tội ác ấy ?

Xin hãy một chút lắng lòng tự-kiểm:

1. Trong tiến trình đấu tranh, chúng ta chưa triệt để với kẻ thù. Nhiều lúc quân-thù sắp bị tiêu diệt thì chúng ta ngừng tay cho chúng kịp phục hồi! Có thể vì đại nghĩa dân tộc, có thể vì chưa hiểu hết sự lưu manh, quỷ quyệt của kẻ thù.
Kinh-nghiệm cho ta nhận-định rằng: Lúc nào CS kêu gọi đoàn kết, hòa hợp, hòa giải, tha thứ chính là lúc chúng đang đi trên đường hướng về tử lộ. Lúc ấy, chúng ta bị kềm hãm, phải vẫy vùng giữa những tình-cảm nặng tính QG bởi những từ ngữ như “tình dân tộc, nghĩa đồng bào”. Chúng ta đã từng phải quỵ ngã vì những tình tự thiết tha đó.

2.Chúng ta quá dễ dàng tha thứ, mau chóng cho phép bọn gian trá hội nhập vào hàng ngũ chúng ta mà không cần thử thách, không đợi thời gian để đo lường, sàng lọc. Chỉ cần bất cứ ai trong bọn chúng phản-đối lẫn nhau là chúng ta vội vàng xếp vào cái gọi là “phản kháng, cảnh tỉnh”. Hậu quả: hàng ngũ chúng ta thêm chia rẻ và kẻ thù có thêm cơ hội thuận lợi xâm nhập làm lực lượng ta tan nát, chiến hữu ta bị chết thảm, tù đày oan uổng, những tổ chức kháng chiến của ta bị tan vỡ đã thực tế chứng minh.

3.Chúng ta quá chủ-quan xem nhẹ kẻ nội-thù. Ðây là bọn xu-nịnh, bọn giá áo túi cơm, bọn vô liêm sĩ. Giống như CS, lý tưởng và mục tiêu tối-hậu của chúng vẫn là quyền lực tanh hôi. Vì quyền-lợi vật chất, chúng sẵn sàng ti-tiện, bẩn thỉu, đê hèn thỏa hiệp với CS. Lắm khi, bọn nầy còn nguy hiểm hơn cả CS. Bởi chúng đứng trong hàng ngũ chúng ta, chúng mượn danh chúng ta để trục lợi. Bọn Việt gian nầy không bao giờ có lương tâm hay sĩ diện. Thật ra nhận diện chúng không mấy khó khăn. Chúng xuất-hiện rất nhiều nơi, tìm cách tranh-đoạt chức vụ. Bằng nhiều hình thái, chúng đánh lừa, gieo vào chúng ta ngộ nhận rằng chúng là thành phần lãnh đạo, thành phần có trách nhiệm trong bất cứ tổ chức, hội họp nào. Chúng cố gắng chứng tỏ là nhân vật có tầm vóc lãnh-đạo. Có khi chúng khôn ngoan giả dạng “mai danh ẩn-tích” hay đứng ngoài, đứng trên “mọi sự tranh chấp”. Nhận định và lập trường “vô thưởng vô phạt” nghĩa là hoàn cảnh nào cũng có thể ngụy biện giải thích. Nếu đụng tới quyền lợi, chúng không tiếc lời trân tráo phao vu, dựng chuyện phỉ báng những người tận lực cống hiến cho đại cuộc. Lắm lúc chúng cũng diễn trò hung hăng, cực đoan.

4.Chúng ta coi nặng tình cảm cá nhân hơn sự an nguy của tổ chức. Do vậy thường khi chúng ta nghi ngờ rồi xa lánh nhau mỗi khi có ý kiến khác biệt. Ðã không cho nhau cơ hội giải bày; lại dễ bị khích động, dễ chấp nhận những thông tin của ai đó nói về những vấn-đề không thuận lợi cho người kia. Ðây là một trong những lý-do chủ yếu gây nên tình-trạng phân-hóa.

Chúng ta bị ràng buộc quá chặt với quá-khứ, Nên thường định-vị giá trị con người qua vị trí xã hội đã có từ trước. Ðành rằng không phải “cá mè một lứa” nhưng tư cách mới thực sự cần thiết để xác định niềm tin và sự tôn kính.

Ngoài những nhược điễm chủ-quan chúng ta cần nên xem xét sách lược của CS và ý thức của ta về nhân vật lãnh đạo cũng như nhân sự trong tổ chức:

1/ CS là một tập-đoàn thống trị, tổ chức rất chặt chẽ; với một bộ tham mưu đầy thủ đoạn gian trá, lưu manh tráo trở và sắc máu. Thần thánh hóa lãnh-tụ, thần phục cá nhân lãnh đạo nghĩa là thần phục tập đoàn. Bộ chính trị mãi mãi là sách lược. Ðể sống còn, tùy theo cấp chức, thế lực phe nhóm chúng chia chác quyền lợi cho nhau khá sòng phẳng. Ngay cả cán-bộ hạ tầng vẫn được có cái quyền của một tiểu ác bá địa-phương.

* Còn chúng ta, khi cần suy cử một cá nhân làm đại diện, làm trung tâm tập họp lực lượng thì không lâu sau đó sẽ có sự đả phá, chống đối. Sự chống đối ấy phần nhiều không bắt nguồn từ lý tưởng chân chính mà vì tỵ hiềm nhỏ nhen. Thông thường từ bọn hoạt đầu, lái buôn, đầu cơ chính trị hoặc bọn tay sai, bọn a dua, vô liêm sĩ, bọn giá áo túi cơm. Phương-thức thường là rỉ tai, truyền đơn, thư nặc danh hay lạm dụng bừa bãi quyền tự do báo chí, viết vung vít vô trách nhiệm. Nếu pháp luật can-thiệp thì xin cải chính, ra tòa bị xác nhận tội trạng thì muối mặt thả lỳ chứng minh mình “thuộc thành phần xã hội phải trợ cấp”, luồn lách chui lòn pháp luật. Hằng ngày chúng ra rả trên các phương tiện truyền thông đại chúng.

Ký giả, truyền thông tự thân rất cao quý, nay bị bọn lòng dạ lang sói làm phẩm cách bị tổn thương. Quần chúng nào thiếu thông tin hoặc lười lý luận hay ít tham-gia các sinh-hoạt cộng đồng rất dễ bị chúng lường gạt.

* Giữa riêng tư và đại cuộc chúng ta vẫn chưa phân biệt rõ ràng, nên chúng ta chưa có cơ hội tập họp được ý chí, lòng quyết tâm; do vậy mà điều kiện trang trải tấm lòng chung bị hạn chế. Tất cả dẫn đến hậu-quả là cho đến hôm nay, chúng ta chưa đồng lòng được với nhau một khuôn mặt lãnh tụ dù rằng chúng ta không thiếu những bậc nhân tài đức độ.
2/ Nhân phẩm, đạo đức không bao giờ là nỗi băng khoăng của CS. Muôn đời, mục tiêu của chúng vẫn là tiếm đoạt quyền lực. Chính trị là phương tiện chủ yếu để thủ đắc mọi quyền lợi. Hưởng thụ bất chính mới là mục tiêu tối-hậu. CS thừa hiểu thế lực lưu manh, hung-hãn sẽ bị gãy đổ nếu chúng không kịp thời tương nhượng, thỏa hiệp với nhau, kể cả với bọn bất lương, đồng thời chúng cũng ra sức củng cố địa vị bằng những thủ đoạn dã man với nhân dân, tàn nhẫn với đồng bọn, không nương tay với bọn nhập nhằng cơ hội. CS cũng thừa biết lực đối kháng từ nhân dân luôn âm-ỷ, nung nấu, mai phục và sẵn sàng chực chờ thời cơ biến thành cuồng phong dữ-dội.

* Còn chúng ta, chỉ cần một vị nào đó có một lỗi lầm nhỏ thường tình; có khi do sơ suất là lập-tức bị thổi phồng, không ít vị còn bị bịa chuyện để bêu xấu. Chúng ta thích dùng lời lẽ lịch sự để đối đãi chiêu-dụ kẻ thù; ngược lại, với anh em ta lại ít khoan-dung. Khuyết điểm này có thể do kẻ thù mà cũng có thể do cái đen tối nằm sâu trong cái tâm chúng ta mà vì quyền lợi, vì mặc cảm chúng ta cố bảo vệ, che-dấu và đồng lõa. Hãy nhớ rằng, nếu chúng ta không cấp thời tỉnh ngộ, thì chúng ta cũng đang là kẻ thù của chính chúng ta, một loại người mà chúng ta kinh tỡm, chúng ta kết án.

Nỗi nhức nhối là trong hàng ngũ chúng ta là bọn hoạt đầu, bọn ham lợi hám danh, phường giá áo túi cơm còn tồn tại, quấy phá. Chúng ta đã phải vướng đủ mọi điều tai tiếng và phải xấu hổ vì bọn nầy. Phải cảnh giác chúng, dù chúng đã bị phỉ nhổ, bị lộ diện, cũng đừng nghĩ rằng chúng đã tự hối hay thua trận, chúng chỉ rút vào bóng tối ! Chúng là con vi-trùng chực chờ chúng ta suy yếu để tấn công tiêu-diệt. Tiêu diệt chúng ta là thành tích, là điều kiện để chúng cầu xin miếng đỉnh chung từ cộng sản.

Hào quang Tiền nhân là lực thúc-đẩy chứ không phải duy chỉ để tự hào, tự an ủi rồi tự cho phép bình yên, nghỉ ngơi, chấp-nhận số phận hay cậy nhờ. Mọi sự bào chữa, thoái thác trách nhiệm, trốn lánh nhập cuộc đều đắc tội với Tiền nhân và con cháu.

Muốn tăng cao hiệu năng chúng ta phải tự thành thật và nghiêm khắc kiểm điểm ưu, khuyết điểm những thành bại đã qua. Nhận diện lại ta và địch không những ở chiến trường mà ngay cả trong mọi tình huống của đời sống. Từ đó chúng ta có kế hoạch thực tiển tấn công kẻ thù. Thành quả của sự công phá trên đầu giặc chứng minh được thực lực và sự quyết tâm của chúng ta.

Hình-ảnh Giang Sơn gấm vóc, Hồn Thiêng Sông Núi chuyển mang hịch lệnh Tổ tiên thúc giục. Hình-ảnh mười ba vị Liệt-sĩ Anh Hùng hiên ngang hy sinh trên đài “Bảo-Quốc” quang vinh tại pháp trường Yên Bái. Triết-lý “sinh ký tử quy” và lá cờ Vàng Ðại-nghĩa trở thành vũ khí, trang bị cho tôi vào trận chiến ngay trong lao tù đày đọa. Giọt nước mắt đầu đời cho Quê hương năm xưa vẫn chưa khô. Giọt nước mắt ấy đã cùng tôi đánh bật quân-thù trong tình thế không cân sức nhưng vô cùng khốc liệt. Chiến tích lớn lao nhất của chúng ta là buộc CSVN phải trả lại Chính Nghĩa Quốc Gia Dân Tộc cho chúng ta. Cộng sản phải trả lời trước lịch sử:

- Tại sao cộng sản là bóng tối, là tội ác, là hiểm họa mà nhân loại cần lập tức loại trừ ?

Hệ luận đó dẫn đến lý do:

-Tại sao chúng ta chống Cộng ?

Hôm nay, giọt nước mắt ấy lại cùng tôi lưu lạc nơi xứ người. Một tấm lòng trong vạn tấm lòng đang hướng về Quê Mẹ rách nát thương đau.

Với nén nhang tưởng niệm, xin thành kính dâng lên Ðức Quốc Tổ, Chư vị Anh hùng tuấn kiệt và mười ba vị Liệt sĩ Yên Bái biểu trưng cho thời kỳ đấu tranh anh dũng quyết liệt của thời cận đại trong thiên anh hùng ca VN kiêu hùng bất khuất.

Chúng tôi thành khẩn xin những nhà lãnh đạo các lực lượng Dân tộc đang nổ lực, kiên tâm tiêu diệt CS để xây dựng lại quê hương hãy cùng nhau liên kết, bủa vây, liên tiếp tấn công; dồn bọn Mafia đỏ từ thế bị động đến rạn nứt rồi vỡ từng mảnh và tan tành. Sẽ đắc tội vô cùng với lịch sử nếu hôm nay các lực lượng cứ lo chỉ trích lẫn nhau, cứ vì tự ái cá nhân khống-chế Tổ chức mình, làm trở ngại công việc lập thành sức mạnh tổng hợp Dân tộc để bọn CS có cơ hội thoát hiểm thêm một lần nữa.

Chúng tôi đã sẵn sàng, xin được cùng Quý vị tiến lên phá tan kìm kẹp, giải thoát cho đồng bào. Tin chắc rằng chúng ta phải dựng được cờ Vàng đại nghĩa, thực hiện được một VN hùng cường, thái bình tự do và nhân ái ./
Tống Phước Hiến

Friday, May 27, 2011

Tìm Gặp

                           Tìm gặp
                                                                     Tống Phước Hiến
                                           Tôi đã nếm những gì là vinh nhục
Nhục và vinh đã thử ghé vào đời
Vinh thì nhỏ, nhục đau nhiều vô kể
Qua nhục vinh tôi thấy được mặt người.

Xin cám ơn đời cho tôi dâu bể
Nỗi buồn vui in bằng dấu chân di
Mỗi vấp ngã thêm một lần chợt ngộ
Mỗi đoạn đường thêm viên gạch từ bi

Cây trỗ nhánh, đâm cành đơm hoa nở
Đời đổi thay như gió nhạt bâng khuâng
Cũng có lúc thử xòe tay bắt nắng
Nắng vuột bay thơ thẩn nhập trầm luân.

Đấng sinh thành, mãi miết đi rất sớm
Không có gì để được gọi trắng tay
Từ độ ấy, ngẩn ngơ cùng gió cát
Mắt vẫn thường ướp lệ dưới mi cay.

Tuổi hoa bướm chỉ nghe bằng ngôn ngữ
Màu tương lai bầm tím ngát chân trời
Tôi ngơ ngác đau vết roi nhân thế
Viết đời mình bằng những nét chơi vơi

Cây cỏ úa thèm nuớc sông hờ hững
Sông lững lờ xa cỏ úa bâng khuâng
Đá thầm hỏi giòng sông trong hay đục?
Sông thở dài tự hỏi đục hay trong !

Đời lẩn thẩn quẫn quanh màu trong đục
Năm tháng dài đuổi bắt chuyện đục trong
Rồi mệt mõi đếm dấu chân trên cát
Bỗng vụt cười huyền ảo những ước mong,

Chân đã bước , tay ôm là đã sống
Tóc đổi màu pha dấu bụi thời gian
Mắt bảo chân cuộc đời là phía trước
Nhưng lắm lần chân lạc bước lang thang.

Đêm hôm qua, trườn tay rờ huyệt mộ
Nơi tôi về và từ đó tôi đi
Tôi bỗng thấy kim thời gian xoay ngược
Thấy đời mình trôi giạt giữa mê si
Tống phước Hiến

Tuesday, May 24, 2011

DI HUẤN TRONG HUYỀN THOẠI

Xuân Hà

Tôi nhớ thuở còn thơ dại, ba tôi hay kể cho nghe những câu chuyện huyền thoại trong lịch sử Việt Nam. Trong những câu chuyện ấy, có một chuyện thật đặc biệt mà tôi khắc ghi trong lòng, đó là chuyện về “Thánh Gióng”. Tôi thích, vì câu chuyện này mang tính chất thần kỳ.
Chuyện kể lại rằng : Vào đời Hùng Vương thứ 6, tại làng Phù-Ðổng, thuộc bộ Vũ-Ninh, Nước Văn-Lang ( tên nước Việt-Nam thời bấy giờ) có một cậu bé bị dị tật bẩm sinh vì đã ba tuổi mà còn nằm ngửa; không biết nói, không biết cười, không biết lật, không biết bò; nhưng sau đó lại trở thành một vị Anh Hùng Dân Tộc.

Tới khi tôi lớn lên, ba tôi mới giải thích cho tôi hiểu rõ hơn mục đích của câu chuyện. Hôm nay, tôi xin được chia xẻ với các bạn những gì tôi đã học được từ câu chuyện thần thoại này.
Theo tôi thì trong câu chuyện Thánh Gióng, Cha Ông ta đã để lại lời di huấn như sau :

Thánh Gióng là một cậu bé mà cơ thể bị chứng chậm phát triển. Thế nhưng một hôm khi nghe tiếng Mẹ gọi : “Lúc đất nước lâm nguy, Tổ Quốc đang cần con, mà sao con không mau khôn lớn lên để giúp Vua cứu Nước”. Mãi tới lúc đó, Gióng bỗng vươn vai, biết nói. Rồi sau bữa ăn do bà con trong làng đun nấu cung cấp, và được sứ giả của Vua mang roi, ngựa sắt theo yêu cầu của Gióng, cậu bé trở thành người khổng lồ. Gióng tay cầm roi sắt, nhảy lên ngựa sắt, Ngựa sắt vừa phun llửa vừa bay ra chiến trường đánh đuổi giặc Ân. Dẹp tan giặc, Tổ-Quốc an bình, Gióng bay về Trời. Nhân dân ta nhớ ơn Ngài và Ngài trở thành Thánh Gióng, một trong nhiều vị Thánh đã cứu Quê Hương Việt Nam qua cơn thống khổ, đọa đày bởi bọn xâm lăng cướp nước.

Cũng như Thánh Gióng, tuổi trẻ Việt Nam khi chưa nghe được lời gọi của Núi Sông thì chúng ta mãi mãi là những em bé, sẽ không bao giờ được trưởng thành. Nhưng nếu chúng ta tỉnh thức bởi tiếng gọi của Mẹ Việt Nam, hiểu được rằng miếng cơm ta đang ăn, manh áo ta đang mặc, nền nếp văn minh văn hóa ta đang thụ hưởng và hãnh diện, rồi chúng ta nhận thức được trách nhiệm của mình đối với Quê-Hương thì chúng ta cũng sẽ nhanh chóng khôn lớn, trưởng thành như Thánh Gióng.
Có thể vì thấu hiểu được câu chuyện này, nên một số người đã thật đau lòng khi thấy có một số những bạn trẻ lại quên cả học hành, chỉ say mê với các thú vui phù phiếm. Riêng với tôi, mấy chữ Quê Hương Ðất Nước thật là thân mến dễ thương, cho nên tôi chủ trương vừa học hành, vừa tham gia vào mọi công tác hợp với khả năng, mặc dầu đôi khi có vài vị đáng bậc cha chú lại bảo rằng “hơi sức đâu ăn cơm nhà mà vác ngà voi”. Tôi cũng noi gương Thánh Gióng không quan tâm đến những điều xuyên tạc, dựng chuyện của bất cứ ai, vì có lẽ mục đích của những người đó cũng chỉ là gây chia rẽ, làm phân hóa hàng ngũ chống cộng. Tuổi trẻ chúng tôi cầu
mong được thế hệ Ông Cha nêu gương sáng để dẫn
dắt thế hệ chúng tôi tiếp bước.
Tuổi trẻ chúng tôi cũng biết thèm khát, cũng muốn được có Quê Hương với nhiều kỷ niệm để yêu quý, để hãnh diện. Nhưng tiếc thay, vì hoàn cảnh của lịch sử, tuổi trẻ Việt-Nam có Tổ Quốc nhưng lại mất Quê Hương.
Tục ngữ Việt-Nam có câu :
“Con không chê cha mẹ khó,
chó không chê chủ nhà nghèo”.
Cho nên dù kinh tế Việt Nam không bằng kinh tế của nước Mỹ, nhưng chúng tôi vẫn mong một ngày nào đó, được về sống trên Quê Cha Ðất Tổ với tư cách và quyền hạn của những người đích thực thừa kế gia tài mà Tổ Tiên đã miệt mài tạo dựng bằng máu xương của hàng hàng lớp lớp Anh Hùng, Liệt Nữ. Ðó là ngày Quê Hương xóa sạch bóng Cộng sản độc tài gian ác. Khi Ðất Nước được Tự Do, Dân Chủ và thanh bình thật sự, có nghĩa là lịch sử bước vào một vận hội mới mà ánh sáng hừng đông hứa hẹn một tương lai huy hoàng rạng rỡ cho giòng dõi Văn Lang.

Xin được cầu mong rằng chút tâm sự này như là những lời tha thiết của thế hệ trẻ, một thế hệ sẽ tiếp bước chung đường của quý vị để về với Non Sông.
Chúng con cũng xin thành kính nghiêng mình tri ân những bậc Trưởng Thượng đã và đang luôn luôn gắn liền trách nhiệm với tuổi trẻ, đồng thời chúng con thiết tha cầu mong tiếp tục nhận được dạy dỗ, bảo ban thêm kinh nghiệm cho chúng con hầu tiếp nối con đường quý vị đang đi.

Cuối cùng, con xin trích một đoạn trong bài “Nỗi Lòng Học Sinh Tỵ Nạn” của tác giả Tâm Nguyên Thanh, những giòng thơ mà con xem như một lời tha thiết cầu xin của tuổi trẻ chúng con thành kính gởi đến quý Thầy Cô đang phục vụ tại các Trung Tâm Việt Ngữ :
                                     ...........................................................
                                      Xin kính gởi một đôi giòng suy nghĩ,
                                      Mong Thầy Cô với năm tháng sau nầy.
                                      Thông cảm thêm những gì con mơ ước,
                                      Vì măng non dễ uốn thuở thơ ngây.

Xin dạy cho con về Non Nước Việt,
Nơi ác thú giăng đau thương khổ lụy.
Ai đang sống trong căm hờn phẫn hận,
Trong bất công tủi nhục miên man ?

Ai là bọn sống nhờ vào bức hiếp,
Tàn độc, phĩnh lừa, bạo lực, gian tham ?
Ai đang chém nỗi sầu lên Quê Mẹ,
Chia, cắt, bán, cầm Ðất Nước Việt Nam ?

Dạy cho con, tại sao ta vong Quốc
Ra đến xứ Người chỉ biết lợi danh ?
Máu tim ta, có cần luôn thao thức,
Mài gươm thiêng nuôi chí cứu dân lành ?

Dạy con biết: nhục nhằn thân tầm gửi,
Cúi mặt an phần thân kiếp ký sinh.
Sống vong nô như "túi cơm giá áo",
Mặc Quê hương, ta ngoảnh mặt vô tình !

Thưa Thầy Cô, có cần gương Tiên Tổ,
Có bận tâm về giòng giống liệt oanh ?
Xót xa không, với Quê-Hương thống hận
Có cần không, những dấu hỏi vây quanh ?

Học tiếng Việt, là học hồn Nước Việt,
Có phải đâu như tiếng Pháp, tiếng Tàu.
Lòng giá lạnh, không mảy may xúc động,
Ðời quạnh hiu, con biết phải về đâu !

Dạy cho con, để sau nầy con biết
Phải làm sao Ðất Mẹ thắm cờ Vàng.
Khôn lớn lên, biết lối sai đường phải,
Xin Thầy Cô con tha thiết, chứa chan !
( Trích :Quê-Hương và Phận Người).
                           Xuân-Hà
Little Sài-Gòn 30.04.2001

Tuesday, May 17, 2011

MỘT CHÚT TÂM TÌNH
Với các bạn thuộc thế hệ kế tiếp
Tống Phước Hiến
Cho phép tôi được tâm-tình với các bạn, những người chưa kịp tham gia vào cuộc chiến trước năm 1975và phải mang thân phận ly-hương tủi-nhục; hoặc phải bị nhìn về một phía bởi đôi lá chắn.
Vâng, chế-độ Cộng-sản tự cho mình là tên  xà-ích và buộc các bạn làm thân ngựa phải gò lưng kéo cỗ xe chĩu nặng tội ác với  hai miếng da chắn tầm ước vọng tuổi trẻ. Chút tâm tình nầy không mang ý nghĩa “Nói với tuổi 20” ( tên một tác phẩm của Thượng-Tọa Thích Nhất-Hạnh ) và thiết tha xin các bạn đừng có thái-độ “Nói với kẻ 40”(Trích từ lá thư trong tác phẩm“Ý-thức mới trong văn-nghệ và triết học của Phạm-Công-Thiện).
Các bạn trẻ thân kính,
Dù tuổi của các bạn còn trẻ, nhưng tôi vẫn  kính trọng, bởi tương lai quê-hương chúng ta do chính các bạn định đoạt; và cũng chính các bạn là những người đang viết tiếp giòng lịch-sử gần 5.000 năm  giống nòi Lạc-Việt.
Thành thật, tôi không dám ở vị-trí mà nói theo thuật ngữ lịch sử là thế hệ bàn giao. Vì chúng tôi có gì để bàn giao, nếu không muốn nói chúng tôi đã bàn giao thân phận của một Dân Tộc có Tổ Quốc  kiêu hùng, có giang sơn gấm vóc, có lịch sử  bất khuất, có nền Văn Hiến từng rực rỡ Phương Đông, nay trở thành những kẻ mất Quê hương, cho dù lưu vong hay còn tại quê nhà ! Vì dù ở nơi đâu mà người được quyền thừa tự nay bị biến thành kẻ chỉ được nhận sự ban cấp từ giai cấp thống trị thì có khác gì nhau.
Chúng tôi vẫn biết một Miền Nam nhỏ bé dù dũng mãnh đến đâu  cũng không thể đương đầu với cả hệ thống Cộng Sản Quốc Tế, nhưng nếu toàn thể Miền Nam nhận thức rõ hơn về ác họa hiểm độc cộng sản thì với  gươm súng và lẽ phải, chúng ta vẫn có quyền tin tưởng vào khả năng lật ngược tình thế như đã từng xảy ra  ở biến cố Mậu Thân 1968.
Hôm nay, với tấm thân tàn tạ bởi thời gian và nỗi ray rức không nguôi, chúng tôi khắc khoải, lấy hết  sức mình thổi ánh than hồng mong thành ngọn lửa làm ấm lại niềm tin, thắp lại tương lai; cầu xin tạ tội với Tiền nhân oanh liệt và hậu bối ngoan cường.Vì vậy, chút tâm tình nầy không mang ý nghĩa trần tình mong cầu sự cảm thông. Chút tâm tình nầy chỉ nhằm khẳng định lại hiện trạng xã hội Việt Nam, nơi đồng bào ta đang lầm than, dân tộc bị suy đồi, và tất cả chúng ta đều phải có trách nhiệm chung vai, góp sức lật nhanh trang sử bi thương nhơ bẩn, hầu tạo ra vận hội mới cho quê hương dấu yêu của chúng ta. Chúng tôi - những mái đầu điểm bạc, trắng màu khổ hận mang niềm đau nỗi khổ Đặng Dung:
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỹ độ long tuyền đái nguyệt ma.
(Thù Nước chưa xong đầu  đã bạc,
Gươm mài  bao độ dưới trăng tà.)
Ngày xưa, khi chúng tôi vào lứa tuổi các bạn bây giờ, tâm hồn còn trinh thơm mùi giấy trắng, và giòng máu kiêu hùng của giống nòi Lạc Việt chảy ấm tim gan, khi khối óc còn dạt dào, ngào ngạt hương sắc ước mộng, chúng tôi đã từng tâm nguyện sẵn sàng lấy máu mình tưới xuống cho quê hương bền vững. Và cũng như Đặng Dung, chúng tôi đã từng mong ước :
Trí chủ hữu  hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn Thiên hà
(Phò chúa những mong xoay cuộc diện,
Binh đi tràn ngập đến  sông Trời).
Chiến tranh gây nên bởi nhũng con người nhân danh chủ nghĩa, nhân danh tự do, nhân danh phẩm giá để tước đoạt nhân phẩm và quyền tự do thiêng liêng tối thiểu của con người. Vì tham vọng quyền lợi, vì mưu bá đồ vương; Việt Minh Cộng sản đã tạo ra bao thảm cảnh thê lương tang tóc, lòng chúng tôi đã xót xa chùng xuống!
Khởi đi từ những bài học về lịch sử, về đạo nghĩa Dân Tộc. Chúng tôi yêu lắm những câu thơ, điệu hò, tiếng hát. Chúng tôi yêu con sông, ngọn núi, lũy tre, bờ ruộng, khóm trúc, đình làng, trống trường, sân chùa, ao cá, mả mồ lăng tẫm. Tất cả những thứ ấy, gom lại gọi là Quê-Hương. Bởi chính Quê-Hương mới làm chúng tôi xao xuyến. Nhịp xao xuyến ấy thúc đẩy chúng tôi phải kiên quyết bảo vệ những cái mà chúng tôi yêu quý vì đó là Tổ Quốc chúng ta.
Các bạn ạ,
Không có con đưòng nào đúng hơn con đường hoa gấm mà Tổ-Tiên đã chỉ lối. Với chúng tôi, không bao giờ có vị bí-thư, chủ-tịch nào hơn Đức  Quốc-Tổ Hùng-Vương và chuyển giao qua bao bậc anh-hùng hiệt-kiệt như Trưng-Vương, Ngô Quyền, Đinh-Tiên-Hoàng, Lý-Thường-Kiệt, Hưng-Đạo-Vương. Rồi Lê-Lợi, Nguyễn-Trãi, Quang-Trung, Nguyễn-Thái-Học... Còn chủ-nghĩa nào hơn chủ-nghĩa Việt ! Chủ-nghĩa ấy đã Bắc bình, Nam tiến, Tây trấn, Đông định qua bao thời đế-chế của ta, từ Trưng Triệu, Ngô, Đinh, Lê đến Lý, Trần, Hồ, Lê, Nguyễn. Vậy ta cần gì cái chủ-nghĩa ung-thối ngọai lai mà đảng cộng-sản Việt-Nam vì cầu sinh đã ký-sinh nó vào giòng sinh-mệnh Dân-Tộc.
Chắc các bạn muốn biết về chủ-nghĩa cộng sản vì các bạn vẫn nghe nhận-định rằng: Về lý-thuyết thì Cộng sản hay, nhưng thực-tế thì không tưỏng!. Lời phê-bình ấy chỉ đúng ở vế sau, vế trước hoàn toàn sai-lạc. Chúng ta hãy nghe Hà-Sĩ-Phu (tức Nguyễn-Xuân-Tụ) người được xem là nhà trí-thức xã-hội chủ-nghĩa nhận định về chủ nghĩa cộng-sản : “Không phải như Cộng-sản thường nói rằng chủ nghĩa luôn luôn đúng, chỉ có con người thi hành sai. Ý thức hệ Cộng sản sai lầm ngay từ căn bản. Phải từ bỏ ý thức hệ đó thí mới xây dựng được đất nước”.(Trích “Chia tay ý thức hệ”).
Từ tình-trạng xã-hội làm xuất-phát chủ-nghĩa cộng sản đã không còn tồn-tại, mà cộng sản lại khư khư ghì chặt lấy cái xã-hội đó để đòi nó phải biến đổi. Tỷ như một người nhắm mắt chê một cỗ xe mà cỗ xe ấy đã bao lần đổi thay thăng-tiến mà người phê-bình cứ mãi nhắm mắt hô-hào dùng bạo-lực chuyên-chính, thù-hận giai-cấp để đổi thay. Vậy họ đòi đổi thay cái gì? Phải chăng đó chỉ là cái cớ cho họ dùng bạo-lực sắt máu, gây kinh hoàng tang tóc hầu dễ bề leo lên chiếc ghế chủ-nhân ông, buộc nhân dân thành đám tôi-đòi, nô-lệ.
Thực-tế xã-hội Việt Nam đã chứng-minh tội-ác tày trời của bọn quỷ dữ, bọn tư-bản đỏ chễm-chệ truy-hoan trên nỗi ngút ngàn khổ-hận, thăm thẳm uất-hờn  của  dân Việt. Chính Hòang-văn-Hoan lãnh tụ trọng yếu đảng cộng-sản Việt-Nam xác nhận rằng “Quyền Con Người, Quyền Công Dân trong chủ nghĩa xã hội đã không có quan điễm kế thừa giá trị Nhân-quyền” (Trích “Quyền Con Người, Quyền Công Dân - Khái lược Lịch sử và Lý luận” Hòang-văn-Hoan, Chu-Thanh) Và Hà-Sĩ-Phu khẳng định “Thực chất, Việt-Nam là một Nước đã chọn nhầm phải con đường“ xã hội chủ nghĩa” và đã tuyên bố dứt khóat rằng: “Nay đã đến lúc bắt buộc phải từ bỏ con đường ấy để trở về hội-nhập với nền văn-minh nhân lọai”. Ông  ngậm ngùi ân hận:”Lòng yêu Nước và khát vọng Tự Do - Hạnh-Phúc đã đưa Nước ta vào qũy đạo cộng-sản với sự trả giá khá đắt” (Chia tay ý thức hệ).
Hồ-chí-Minh, thủ lãnh đảng ma đầu cộng-sản Việt-Nam đã chỉ vào Quê-hương yêu dấu mà Tổ-Tiên ta khai-phá, đắp bồi, bảo-vệ bằng máu xương công-khai tuyên-bố: ” Đây sông Lê, kia núi Mác”. Bằng lời mãi quốc ấy, Hồ-chí-Minh khẳng định với mẫu quốc Liên-sô rằng Việt Nam là một phần trong cái gọi là “Thế-gíới đại-đồng” dưới quyền thống-trị của cộng sản Liên-Sô.
Tố-Hữu, tên ác quỷ văn-nô, thủ-phạm giết chết nền văn-học Việt Nam . Chính y đẩy không biết bao nhiêu Văn-Nhân tài-hoa khí-tiết vào tù đầy man rợ, triệt-tiêu ý-chí tự-hào dân-tộc, đạo-lý làm người, khí-phách kẻ sĩ Việt Nam .  Khi những Trần-Dần, Phùng-Quán, Phan-Khôi, Nguyễn-Chí-Thiện, Bác-sĩ Nguyễn-Đan-Quế, Hòa-thượng Thích-Huyền-Quang,  Thích-Quảng-Độ, Cụ Lê Quang-Liêm, Linh-Mục Nguyễn-Văn-Lý, Bác-sĩ Phạm-Hồng-Sơn, nhà báo Nguyễn-Vũ-Bình, Luật-Sư Lê-Chí-Quang...anh dũng lẫm-liệt viết tiếp giòng Văn-Học-Sử tiết-tháo chính nhân. Thì Tố-Hữu ra lệnh cho bọn bồi bút phải tuyên xưng y là ngôi sao Bắc-đẩu của cái gọi là nền văn-học xã-hội chủ nghĩa. Tố-Hữu tự phơi bày bộ mặt thật bằng những dấu vết nhơ bẩn nhất trong lịch-sử giống nòi :
Vui biết mấy khi con tập nói,
Tiếng đầu đời con gọi Sta-line.
Hay:
Hoan hô ông Sta-line,
Đời đời cây đại thọ.
Rợp bóng mát hòa-bình.
Và rồi gào khóc:
Hôm qua loa gọi ngoài đồng,
Tiếng loa xé ruột đau lòng biết bao
Làng trên xóm dưới xôn xao
Làm sao, Ông đã làm sao mất rồi?
Ông Sta-lin ơi! Ông Sta-lin ơi
Hỡi ơi Ông mất ! đất trời có không?
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương Ông thương mười.
Có phải những Trần-Ích-Tắc, Trần-Di-Ai, Trần-Thiêm-Bình, Mạc Đăng Dung, Lê-Chiêu-Thống, Trương-quang-Ngọc, Nguyễn-Thân... đã đầu thai trở lại thành những Hồ-chí-Minh, Phạm-Văn-Đồng, Võ-nguyên-Giáp, Tố-Hữu, Đỗ-Mười, Võ-Văn-Kịêt, Lê-khả-Phiêu, Phan-văn-Khải, Nông-đức-Mạnh, Trần-đức-Lương, Nguyễn-tấn-Dũng... để thực-hiện lời thề: “muôn kiếp mãi Quốc cầu vinh”, mà hôm nay tên giám-đốc bưu-điện của thành-phố phải chịu đau nhục mang tên của tội-đồ Dân-tộc Hồ-chí-Minh trả lời  trên báo Thanh-Niên của Huỳnh-Tấn Mẫm ( tên sinh-viên háo-danh, lợi dụng chế-độ tự-do của Việt-Nam Cộng-Hòa làm lợi cho cộng sản, đến khi bị trao trả cho Việt cộng thì gào khóc chối mình không phải là Cộng sản. Bây giờ cúi rạp mình trước mũi giày của bọn thất học Đổ-Mười cầu xin chút lợi danh dư  thừa bợn cặn) rằng: Sở-dĩ chúng không phát hành tem bưu-điện có in hình các Anh-Hùng Dân-Tộc vì “sợ “ mất lòng Trung-Quốc” Bạn hãy thử dõi mắt tìm từ đô thành đến thôn quê hẻo lánh xem có công-trình, tượng-đài hay một bức phù điêu nào được dựng  lên để vinh-danh các Anh-Hùng Dân-Tộc không? Thế mà mỗi lần hút máu dân đen, bao giờ chúng cũng dùng những từ-ngữ thiêng-liêng đượm nét tìnht tự như : “Dân-Tộc, Tổ-Quốc, đồng bào...”.
Ngay trong sách giáo-khoa về bộ môn Lịch-sử Văn-Minh Việt Nam , đảng cộng sản chỉ cho lướt đoạn rồi bóp méo, sửa-chữa, làm sao tuyên-xưng cho bằng được cái chủ-thuyết:”Huyết hận giai-cấp”. Thực sự, thì chúng cũng chẳng huyết hận gì vì Hồ-chí-Minh, Phạm văn Đồng thuộc giai-cấp phong-kiến, Trường Chinh tức Đặng-Xuân-Khu thuộc giai-cấp địa-chủ, Võ-nguyên-Giáp thuộc giai-cấp trí-thức tiểu tư sản. Nếu theo đúng khẩu-hiệu đẫm máu do chúng đề ra: “Trí, Phú, Địa, Hào - đào tận gốc, trốc tận  rễ”  ( Khẩu hiệu trong cuộc bạo lọan cướp bóc do cộng-sản thực hiện dưới cái gọi là “Sô-Viết Nghệ-Tỉnh”), thì trước tiên  phải chặt đầu bọn nầy. Nhưng có hề gì chuyện ấy! Bởi mục-đích duy nhất của chúng là chiếm đọat cho bằng được địa-vị, quyền-lực để hưởng-thụ.
Muốn sự cai-trị được bền chắc, chúng phải dựng lên chủ-thuyết duy-vật. Và để bảo-vệ cái chủ-thuyết oan-nghiệt ấy, chúng ra tay tàn phá tôn-giáo, nhất là đạo-lý dân-tộc. Bởi đạo-lý dân-tộc là chất keo cho sự đoàn-kết, là sức bật dũng-mãnh đánh tan ngoại-xâm. Và tôn-giáo làm con người  xa dần ác độc bạo-tàn,  giúp con người gần với nhân-cách, bác-ái, công-bằng, vị tha. Vì vậy, đạo-lý dân-tộc và tôn-giáo bị cộng sản liệt vào phạm trù duy tâm. Phạm-trù nầy bị tiêu-diệt thì duy-vật thấp hèn mới có cơ-hội phô-trương, xử-dụng nanh vuốt  ác thú.
Bằng mọi thủ-đọan gian manh tàn độc và ty tiện hèn hạ nhất, cộng-sản Việt-Nam quyết diệt ý-thức tồn sinh Dân-Tộc. Vũ-khí muôn đời của chúng vẫn là bạo-lực.  Bằng đói nghèo, túng quẫn, tù đầy, chết chóc đe-dọa, đảng cộng sản ép buộc  mọi người  phải đổ xương máu, mồ-hôi, nước mắt, tan-tác, sinh ly, tử biệt cho chúng hưởng đủ mọi lạc thú đế vương. Chúng thủ-tiêu bất-cứ ai mà chúng nghĩ rằng bất lợi cho chúng. Thời chiến-tranh thì chiếc mũ “Việt-gian”, hết chiến-tranh đổi qua mũ “Phản-động”. Biết bao danh-tài, tinh-hoa dân-tộc và người dân vô tội ngã gục trước bạo-lực cộng sản. Danh tính nầy không biết bắt đầu từ đâu và bao giờ kết-thúc ! Chỉ biết Khái-Hưng, Tạ-Thu-Thâu, Võ-Tam-Anh, Lương-Trọng-Tường, Hòa thượng Thích-Thiện-Minh và gia-đình kịch tác gia Lưu-Quang-Vũ  đã nằm trong danh-sách ấy. Hòa-Thượng Thích-Huyền-Quang, Thích-Qụảng-Độ, Bác sĩ Nguyễn-Đan-Quế, cụ Lê-Quang-Liêm, Linh Mục Nguyễn-văn-Lý, Mục Sư Nguyễn-Hồng-Quang. Cựu đảng-viên, cán-bộ cộng sản như Hoàng Minh Chính, Đỗ Trung Hiếu, Hà Sĩ Phu, Bùi-Minh-Quốc, Trần Khuê, Phạm-Quế-Dương… và lớp trí thức trẻ như Bác-sĩ Phạm-Hồng-Sơn, Luật-sư Lê-Chí-Quang, nhà báo Nguyễn-Vũ-Bình đang chờ chuyển qua danh-sách. Lúc trước thì dùng  chính-sách “quản lý hộ khẩu” loại vũ-khí “bao tử trị” tinh-vi, nguy-hiểm. Và hôm nay, với khẩu-hiệu : “Kinh-tế thị-trường” chúng công-khai dùng luật rừng, một thứ luật “sớm nắng chiều mưa” hầu nâng cao và bảo-vệ cho quyền-lợi của đảng  thảo-khấu bất-lương cộng-sản. Những khẩu hiệu trên đầu môi đảng viên cộng-sản như: “Bảo vệ Tổ-Quốc, Giải phóng Dân-Tộc, Xây dựng Dân chủ, Kiện tòan ấm no hạnh phúc cho nhân dân..”.Thực chất chỉ là những cái bẩy để: Hoặc vì người dân có tấm lòng tha thiết với quê-hương, hoặc vì bị phĩnh lừa, đe dọa, ép buộc đành phải hy sinh hay cúi đầu chấp nhận số phận cho chúng được tận hưởng mọi vinh hoa sang giàu ngất ngưỡng với ngút ngàn vật chất và bất tận quyền uy. Trong khi  người dân khốn-khổ, đói rách. Muốn được yên thân, người dân phải quần quật:”làm ngày không đủ, tranh-thủ làm đêm, làm thêm giờ ngủ”, thì đảng viên cộng sản truy hoan, thâu đêm suốt sáng bên gái đẹp thơ ngây với thực phẫm thừa mứa linh đình. Bạn hãy hình dung 80 triệu người dân Việt lầm than tan nát, cần cù lao nhọc cho 2 triệu đảng cộng-sản hưởng thụ, bạn sẽ cảm nhận được chủ nghĩa cộng sản  hèn mọn và lưu manh. Bạn suy-nghĩ sao khi Liên Hiệp Quốc đánh giá: Việt-Nam thu-nhập bình-quân 200 USD mỗi người mỗi năm. Có lẽ bạn cũng cảm nhận đó là con số đáng tủi nhục, là hằng số biểu diễn khả-năng lãnh-đạo và tội-ác của đảng cộng sản. Nếu phân-tích một chút, bạn sẽ thấy nó còn tồi tệ hơn nhiều. Tồi-tệ như màu  đỏ búa liềm đã nhuộm máu dân hiền để gom vàng về cho đảng búa liềm, cho lũ  cán-bộ sao vàng vô-dụng, bất-lương.  Bình-quân phải được hiểu theo nghĩa nhân-bản.
Vâng, tôi đồng-ý xã-hội nào cũng có bất-công, có chênh-lệch về mức sống. Nhưng sự bất-công chênh-lệch ở khoảng ngạch tiệm tiến, nghĩa là khoảng cách giữa chuyên-viên bậc cao, bậc trung, sơ đẳng, hoặc tập-sự, phụ việc, học việc không quá xa cách. Nếu so-sánh khoảng cách cao và thấp nhất, thì người thấp nhất vẫn có cuộc sống tiện-nghi đầy đủ, họ vẫn được xã-hội và luâït-pháp tôn trọng ngang nhau. Họ chỉ hơn thua nhau ở điều-kiện sung-túc, du-hý thôi.
Còn ở Việt Nam hiện nay thì sao ?
Đây, các bạn hãy nhìn khắp mọi nẻo đường từ  thôn quê đến bất kỳ một thành-phố lớn nhỏ nào, bạn cũng sẽ thấy đầy dẫy những cảnh bần cùng khốn khổ, mọi lớp người đang phô-trương cái “thiên-đường Cộng sản” từ móc túi, cướp giật, đến từng đoàn người hành-khất lang-thang, vô gia-cư, vô nghề-nghiệp, bịnh tật không thuốc men chữa trị. Vì không có điều-kiện tối thiểu, nên họ phóng-uế, tắm rửa bưà-bãi tràn lan nơi công-cộng. Nhan-nhãn những gái ăn sương, những cảnh hành-lạc, hút sách, tệ-đoan xã-hội ngập tràn đến tận công-viên. Xã-hội băng-hoại theo tốc-độ vô phương ngăn chận. Có đau lòng không khi những em bé phải bán trinh-tiết, xác thân vì sự khắc-nghiệt của cuộc sống mà lẽ ra với số tuổi nầy các em phải được tung tăng  vào những năm đầu của bậc trung-học. Bản án nào phải giành cho đảng cộng Sản vì chúng  đã cướp đi nơi các em đôi mắt nai tơ, tuổi ô-mai, nụ cười hàm tiếu và mái tóc xõa tung vô tư, bay bay trong gió ở sân-trường? Nầy đây, trước cổng bệnh-viện bạn sẽ bắt gặp đám người xanh-xao, gầy-gò, chen-lấn, giành nhau bán máu bởi vì họ không còn phương cách nào khác hơn cho cơn đói da-diết hành hạ rã-rời thân xác họ! Bạn cũng dễ dàng thấy những khuôn mặt đau thương  đang kiểm lại từng đồng bạc  tạo ra từ mồ-hôi nước mắt, có khi bằng cả xương máu, họ đã phải chắc-chiu tiện-tặn - Thưa các bạn, chốc nữa đây, những đồng bạc xương máu ấy sẽ phải giao nạp hối-lộ cho bọn “lòng lang dạ thú” mà đảng cộng sản thường tự cho là cơ-quan có phương châm: ”lương y như từ mẫu”. Các bạn ơi, những đồng tiền ấy có thể họ có sau một cuộc bán dâm uất nhục tan nát cõi lòng từ xóm “bình-khang” ra, cũng có thể đó là mảnh vườn, con gà, lon gạo cuối cùng. Ôi lưỡi liềm, và chiếc búa oan-nghiệt của tử-thần cộng sản in đậm trên nền  máu  tươi  uất-hận  nghẹn-ngào  của lương  dân mà đảng cộng-sản Việt-Nam đã dùng làm biểu tượng.
Rồi bạn lại thấy những tòa dinh-thự, những nhà hàng nguy-nga tráng-lệ. Trong đó, bầy ác quỷ đang sống sa đọa, đang say sưa những vũ-khúc xé cào da thịt Việt Nam ! Bạn ơi, máu đào dân đen đang là nhiên-liệu cho những chiếc xe hơi bóng lộn của bọn  cán-bộ cộng sản. Tất cả những hoan lạc, những tiện nghi sung mãn ấy, đảng cộng-sản Việt-Nam đã mua, đã trả bằng những tấm da lưng của lương dân Việt Nam ! Bọn quan-chức cộng sản còn học đòi thói xa hoa trọc phú, chúng mua bán, đổi chác những con chó kiểng bằng nhiều năm lương của một phu hốt rác, thành-phần xã-hội mà chúng tâng-bốc phỉnh lừa là “chủ nhân ông, là nòng-cốt Cách-Mạng”, hay rất nhiều lần hơn trinh-tiết của em gái thơ dại.
Bạn có biết: Luật-Sư Hòang-Cơ-Thụy nhân dịp kỷ niệm 90 tuổi, cụ đưa ra bản “Tuyên-Ngôn Hưng-Quốc” tại Antony (ngọai ô Paris) mà cụ viết từ ngày 10 đến ngày 17.12.2001 trong đó có đọan cụ cho công bố tài sản kếch xù của những ủy viên thuộc bộ chính trị cộng sản Việt-Nam. Chúng tôi xin trích dẫn một đọan như sau:
Theo nghiên cứu hồi cuối năm 2000 của một số chuyên viên ngân hàng, thì tài sản tính theo dollar Mỹ (USD) của 18 tên Việt cộng chóp bu đã vơ vét được tới nay (VC Politburo's Networth, Internet Thursday December 21.2000) là
1-Lê-khả-Phiêu-cựutổng-bí-thư:1tỷ170triệu
2-Trần-đức-Lương- chủ tịch nước: 1 tỷ 130 triệu
3-Phan-văn Khải  - Thủ-tướng : 1 tỷ 200 triệu
4-Nông-đức-Mạnh- nguyên chủ tịch quốc hội, nay là tổng bí thư : 135 triệu
5-Nguyễn-văn-An - chủ tịch ban chấp hành trung ương đảng: 143 triệu
6-Nguyễn-tấn-Dũng-Phó thủ tướng thường trực:1tỷ480 triệu
7-Nguyễn-mạnh-Cầm - Phó Thủ tướng kiêm tổng-trưởng ngaọai giao: 1tỷ150 triệu
8-Nguyễn-đức-Bình- Giám-đốc học-viện Hồ-chí-Minh kiêm chủ tịch ủy ban lý-luận đảng 140 triệu 9-Nguyễn-thị xuân-Mỹ - chủ tịch ủy ban trung ương kiểm sóat đảng : 117 triệu
10- Phạm thế-Duyệt - chủ tịch mặt trận tổ quốc: 1 tỷ 173 triệu
11-Phạm-văn Trà - trung tướng tổng trưởng quốc phòng : 1 tỷ 360 triệu (chưa kể 10 tấn vàng cướp được từ cuộc xâm lăng vào Kumpuchia từ 1979 đến 1989)
12- Lê-minh-Huơng - trung-tướng tổng trưởng bộ nội vụ : 156 triệu
13-Lê-xuân-Tùng - bí thư thành ủy Hà-Nội:116 triệu
14-Trương tấn Sang-chủ-tịch ủy-ban nhân dân thành phố Hồ chí Minh(Saigon):1tỷ124 triệu
15-Phạm-thanh-Ngân -chính ủy quân-đội: 12 triệu
16-Nguyễn-minh-Triết - bí thư dảng ủy Hồ-chí-Minh ( Saigon ) : 197 triệu
17-Phan-Diễn - bí thư đảng uỉy Đà-Nẳng: 156 triệu
18- Nguyễn-Phú-Trọng - chủ tịch ủy ban nhân dân Hà Nội: 140 triệu
(Theo Ải Nam-Quan của Trần-Gia-phụng và  nội san Việt-Nam Quốc Dân Đảng số 20 tháng 2.2002 - muốn biết thêm các bạn hãy vào website : www.Canong.Canong.com/hcthuyhtlm
Thật là: “Trúc rừng không ghi hết tội, nước biển Đông không rửa hết tanh hôi!” (Trích “Bình-Ngô đại cáo”của Nguyễn-Trãi). Nếu dã thú là hình ảnh của kinh-hoàng, thì cộng sản còn kinh-hoàng hơn gấp bội, bởi dã thú không biết phỉnh gạt, không biết ăn thịt người bằng cách cưỡng bức con người phải tạo ra của cải vật chất cho chúng thụ hưởng để rồi yếu liệt, đuối sức mà chết, nhưng nạn-nhân lúc nào cũng phải tung-hô, mang ơn cúi đầu trước kẻ sát-nhân.
Bạn cần phải ghi nhận rằng:
Cuộc chiến chống thực dân Pháp, đảng cộng sản không những không góp máu xương mà còn lưu-manh, tráo trở. Chúng lợi-dụng tinh-thần yêu nước của nhân-dân để cướp công kháng chiến làm bàn đạp cho mưu đồ chiếm lĩnh quyền lực sau nầy. Hồ-chí-Minh tự ý giải-tán đảng cộng sản  và gia nhập vào Việt-Nam Độc-Lập Đồng-Minh Hội  tức Việt-Minh.
Trong khi Người Chiến-sĩ Quốc-Gia anh dũng chận gót chân xâm-lược: “Này Công-dân ơi! Đứng lên đáp  lời Sông núi.  Đồng lòng cùng đi, hy-sinh tiếc gì thân sống !” Trích Quốc ca VNCH)
Thì bọn Cộng sản gian manh, núp dưới phù-hiệu Quốc Gia tìm mọi phương-kế thủ tiêu sát hại các con yêu của Tổ-Quốc. Thâm-hiểm hơn, đảng cộng sản dùng chiến-trường, gài thế kỷ luật tổ-chức, nhân-danh lý-tưởng Giải-Phóng Dân-Tộc, rồi bí-mật bắt tay quân thù nhắm triệt để tiêu-diệt  lực-lượng Quốc Gia, phát-triển  lực-lượng cộng sản của chúng. Trước dư-luận Quốc Dân và Quốc-tế, chúng  ra sức ngụy tạo vu-khống, bôi nhọ và tấn công sát hại các lãnh-tụ Quốc Gia mà vụ tấn công ở Cầu Giấy; vụ án ở đường Ôn-Như-Hầu vàø Chiêm-Sơn (Quảng-Nam) đã chứng minh. Đồng thời, chúng bất chấp mọi thủ-đoạn đê-hèn  xảo-trá để đề-cao, thần thánh hóa lãnh-tụ của chúng. Tôi xin dẫn một vài bằng chứng trong vô số bằng chứng, hùng h?n chứng-minh Hồ chí Minh vô-liêm sĩ:
-Hồ-chí-Minh trâng-tráo cưỡng-đoạt tên Nguyễn-Ái-Quốc tức Nguyễn Le Patriote vốn là tên của nhóm Le Paria  (Người cùng khổ) mà chủ-lực là hai cụ Phan-Văn-Trường và Nguyễn-Thế-Truyền. Trâng-tráo hơn, y tự xưng là chủ-nhiệm kiêm chủ-bút  tờ Le Paria  trong khi  thực-sự là do J.B. MEYRAT (từ số 1 đến  số 12 ) và sau  đó do  G. SAROTTE  và LÉOPOLD  MESNARD. Cũng như  hai tờ  L'Humanité và Việt Nam Hồn sau đó đổi thành Phục-Quốc (số tháng 9/1926) Hồ-chí-Minh không viết được bài nào cả. Chính các cụ Phan-văn-Trường Tiến-Sĩ Luật-khoa đầu tiên của cả Đông-Dương, Nguyễn-Thế-Truyền Sinh-viên Đại-học Khoa học Paris và Trường Cao-đẳng Trung-ương - Ecole Centrale đã giới-thiệu cho Hồ-chí-Minh vào đảng Xã-Hội Pháp và hội Thuộc-Địa, nhưng Hồ tráo trở ngược lại là y đã giới-thiệu cho hai cụ. (theo Cao-Thế-Dung trong Chân tướng Hồ-chí-Minh). Điều đáng lưu ý là lúc ấy, Hồ-chí-Minh mới đến Pháp với cái tên Nguyễn-tất-Thành, không địa-vị xã-hội, vô gia-cư, vô nghề-nghiệp. Xin vào Trường Thuộc-địa mà Pháp còn không chấp-nhận (tài-kiệu do Tiến-sĩ Vũ-Ngự-Chiêu công bố) thì làm sao mà Hồ giới-thiệu hai cụ mà vốn từ lâu các cụ đã có địa-vị, học thức và tiếng tăm tại Pháp.
- Hồ-chí-Minh còn hợm-hĩnh ngụy-tạo các tên Trần-Dân-Tiên, T.Lan và X.Y.Z. để tự ca ngợi, đề cao mình.
- Nhục nhã hơn nữa, Hồ chí Minh. đã sang đoạt tập “Ngục-Trung Nhật Ký” của một người Tàu vốn là bạn đồng tù vì tín-cẩn nhờ y trao lại cho gia-đình tác giả khi Hồ được trả tự-do. Giáo sư. Lê Hữu Mục trong bài viết gởi cho UNESCO đã vạch mặt Hồ-chí-Minh là tên đạo văn ( Hồ-chí-Minh không phải là tác gỉa “Ngục trung nhật ký”). Kết quả : Hồ-chí-Minh đã bị cơ-quan quốc-tế nầy hủy bỏ quyết-định tổ-chức vinh-danh y như là một nhà thơ lớn của nhân-loại. Vết nhơ nầy cộng sản không thể nào và không bao giờ rửa được.
- Ngay cái tên Hồ-Chí-Minh là bí danh của nhà ái quốc Hồ-Học-Lãm, Người sáng lập ra tổ chức Việt-Nam Độc Lập Đồng-Minh Hội sau nầy bị Nguyễn-tất-Thành cưỡng đọat cả tên lẫn tổ chức (Trần-Gia-Phụng trong “Án tích cộng sản Việt-Nam”)
Tội ác đồ tể Hồ chí Minh và đảng cộng-sản Việt-Nam ghi bằng máu của những nhà ái-quốc như: lãnh-tụ Quốc-Dân-Đảng Nhượng-Tống Hoàng Phạm Trân, Đại-Việt Quốc-Dân-Đảng Trương-Tử-Anh, Đại Việt Duy-Dân Lý-Đông-A tức Nguyễn-Hữu-Thanh, nhà văn Khái-Hưng (Trần-Khánh-Giư), Giáo-Chủ Phật-Giáo Hòa-Hảo Đức Huỳnh-Phú-Sổ, các nhà Cách-Mạng Vũ-Tam-Anh, Tạ-Thu-Thâu, Hồ-Văn-Ngà, Bùi-Quang-Chiêu, Trần-văn-Thạch..., thậm chí người đã trở về cộng  tác với chúng  như Hồ-Tùng-Mậu (Ủy-viên trung ương đảng cộng-sản Việt-Nam, Lâm-đức-Thụ (tức Nguyễn-công-Viện (hoặc Viễn) kẻ đã cùng với Hồ-chí-Minh bán cụ Phan-Bội-Châu cho thực-dân Pháp) và anh là  Nguyễn-công-Truyền từng là phụ-tá cho Hồ chí-Minh, Nguyễn-Bình (trung-tướng), Ung-văn-Khiêm (bộ-trửơng ngọai giao, Dương--bạch-Mai (dân biểu), Đinh-bá-Thi (đại-sứ tại Liên-hiệp quốc), Nguyễn-đình-Thứ (ủy viên bộ chính-trị) vẫn  bị chúng  hạ sát. Nạn-nhân của chúng có vị uất hận chết như cụ Huỳnh-Thúc-Kháng, có vị sớm tỉnh ngộ vượt thoát được như các cụ Nguyễn-Hải-Thần, Nguyễn-Tường-Tam, Vũ-Hồng-Khanh...,có tên hèn nhát đầu hàng mới kéo lê được kiếp sống hèn mọn như Trần-huy-Liệu, Xuân-Diệu, Thế-Lữ, Nguyễn-Tuân, Huy Cận, Chế-lan-Viên, Nguyễn-Bính...
Những cán-binh cộng sản hưởng-ứng chính-sách chiêu-hồi của Chính Quyền Việt-Nam Cộng-Hòa đã vượt tuyến vào Nam , hoặc rời bỏ hàng ngũ quay trở về với Chánh-Nghĩa Quốc-Gia đã can đãm và mạnh mẽ xác nhận tội ác đảng cộng sản đã gây cho Tổ-Quốc Việt Nam như:
- Cuộc thảm-sát tại các đấu-trường trong chiến dịch Cải-Cách Ruộng Đất tại các vùng bị chúng tạm chiếm.
- Chiến dịch Sửa Sai .
- Triệt hạ trí thức yêu nước trong phong trào “Nhân-văn” và “Giai-phẩm”. Nhằm thực hiện chính sách ngu dân vào năm 1956 .
- Đàn áp phong trào phản kháng Quỳnh-Lưu.
- Vụ án xét lại .
- Vụ thảm sát tập thể Tết Mậu-Thân taiï Huế và trên tòan lãnh thổ Việt-Nam Cộng-Hòa.
- Cuộc cải-tạo  công, thương và nông nghiệp (thành lập các hợp tác xã nông-nghiệp, sản xuất, tiêu thụ).
- Chính-sách kinh-tế mới để cướp nhà cửa đất vườn, tài sản và khống chế người dân.
.- Hai lần đổi tiền để vơ vét tiền bạc của dân
- Cuộc tắm máu bằng cách làm khô máu tù-nhân lương tâm như các Văn Nghệ Sĩ chân chính, lãnh tụ và đảng viên các đảng phái Quốc-Gia, các vị lãnh đạo tinh thần và giáo dân các tôn giáo, các nhà Trí thức Ái Quốc, viên chức, cán bộ, Sĩ Quan Quân-Đội và Cảnh-Sát Quốc-Gia của các chánh quyền Quốc-Gia Việt-Nam và Việt-Nam Cộng-Hòa ở Miền Bắc sau 1954 và Miền Nam sau 1975.
- Dưới nhiều hình thức, đảng cộng-sản Việt-Nam thẳng tay trắng trợn vơ vét cướp đoạt tài của người dân và của các tôn-giáo.
-Tàn phá các công trình văn-hóa.Tiêu hủy một số công trình trí tuệ và nghệ thuật như tuợng đài, sách báo, phim ảnh dưới chế độ Việt-Nam Cộng-Hòa, đào bới chiếm đoạt các cổ vật của các thời đế chế Việt-Nam
-Ngăn chận mọi sự tu sửa, dùng thời gian làm suy thoái, băng họai các di-tích văn hóa dân tộc như đình, chùa, đền, miếu.
-Phá hủy các di tích thiên tạo thuộc truyền thuyết nhân dân như tượng nàng Tô-Thị ở Đồng Đăng.
Tất cả bằng chứng ấy cũng đủ để kết án đảng cộng-sản Việt-Nam là kẻ diệt chủng, chống lại nhân-loại.
Thế-giới đã từng chứng-kiến ít nhất ba lần  cuộc bỏ phiếu bằng chân rất quyết liệt và vô tiền khoáng hậu của Nhân-Dân Việt Nam . Họ dùng chính tính mạng mình để thức-tỉnh lương-tâm nhân-loại đó là:
- Cuộc di-cư 1954.
- Cuộc tháo chạy kinh-hoàng trên đại-lộ tử-thần 1972.
- Bi tráng nhất là cuộc vượt biên trong khoảng thời gian mà thời điễm lịch sử gọi là 30 tháng 4 năm 1975. Với Bản cáo trạng hùng hồn nầy người dân Việt  đã viết nên bằng máu xuơng, bằng tan-tác chia ly, với muôn trùng phẩn hận!
Sự bạo ác nghiệt ngã, được tàn nhẫn thực hiện dưới các sách lược như: Ngu dân, hộ-khẩu, dùng lý-lịch chia dân ra nhiều hạng bậc để đãi ngộ hay kỳ thị đã nghiền nát  tình cảm lân lý hỗ tương đoàn kết keo sơn, một thứ đạo lý cần thiết để tồn tại của Dân Tộc từ thuở  lập quốc  trải qua bao  gian lao thăng trầm.Sự bạo ác nghiệt ngã ấy cộng với vũ-trường, xe hơi, nhà lầu, tiện-nghi vật-chất, thói hưỡng lạc, thích xum-xoe chức quyền  đã nhanh chóng triệt-tiêu ý-chí và lòng tự trọng của thanh-niên Việt-Nam!
Khi đôi chân sắp đến ngưỡng cửa đời, người thanh-niên đã bị bịt mắt, bị thui chột lương tâm bởi họ chỉ còn nhìn được một phía. Trước mắt, họ có hai cảnh đời để chọn lựa: Hoặc  là phải hèn hạ để được ấm no  sung mãn vật-chất, quyền lực nếu họ chấp nhận đi theo cái ác, đứng về ác quỷ. Phần còn lại là tù đầy, nếu họ đứng về lẽ phải và nhân-ái.
Ý-thức kiêu-hùng, truyền-thống quật-cường Dân-Tộc đang bị chủ-nghĩa Max-Lenine tấn-công và tiêu-diệt. Đây là tội ác lớn nhất của đảng cộng-sản Việt-Nam và Hồ chí Minh đối với lịch sử và sự an nguy tồn vong của giống nòi.
Chắc bạn còn nhớ hành động Mãi Quốc Cầu Vinh của Mạc-đăng-Dung, tội ác làm Tổ-Quốc rúng động! Lịch sử giống nòi từ thời Đức Hùng Vương lập quốc mãi đến năm 1540, mới có một lần duy nhất: Mạc-đăng-Dung dâng các động Tê-phù, Kim lặc, Cổ Sâm, Liểu Cát, La-Phù thuộc Châu Vĩnh-An cho kẻ thù phương Bắc dể đổi lấy chức An-Nam Tiết-Độ Sứ do kẻ thù phong cho.
Hồ-chí-Minh khai sinh ra đảng cộng-sản Việt-Nam không phải vì nhu cầu và quyền lợi của Tổ-Quốc Việt-Nam mà vì nhu-cầu và quyền lợi của cộng-sản quốc tế nên tâm hồn Hồ chí Minh và đồng bọn đã không thấm được những vần thơ thiết tha, nói lên Hồn Dân và Hồn Nước:
Đây biên cương hai Nước thù đẫm máu
Đây Nam Quan, con mắt khép tình thâm
Lối qua lại của một loài cuồng khấu
Đây Nam Quan, bốn bề sương lạnh lẽo
Hồn thửơ xưa lay động bóng tinh kỳ
Ai đi sứ nơi quê người lẽo đẽo
Cỏ hoa rừng dâng lệ khóc phân ly!
Đây Nam-Quan những u hồn thấp thóang
Đứng đầu non, trông dõi bóng Quê-Hương
Đây Nam-Quan, Anh Hùng xưa lảng vảng
Trỏ sang Tàu, vẽ máu trên đường gươm
Đây Nam-Quan nơi Tướng quân họ Lý
Đuổi quân thù để cứu lấy dân sinh
Lại phóng xá cho giống người tiểu kỷ
Rút binh về, múa tít lưỡi gươm linh
Đây Nam-Quan, quân Nguyên rời biền máu
Thóat rừng xương, tơi tả kéo nhau về
Say chiến công, Tướng nhà Trần lảo đảo
Nắng chiều hôm rung động ánh gươm thề
Màu thời gian phất phơ làn khói biếc
Bóng Người xưa lồng lộng tít trời xanh
Đến bây giờ Thăng-Long nằm đợi chết
Đau lòng ta tiếng gọi dưới trăng thanh
Nuớc phá nhà tan muôn dân u uất!
Biết bao giờ lau sạch máu trên đầu?...
Hoàng-Cầm
Bởi thế, Hồ-chí-Minh và đảng cộng-sản Việt-Nam không những đã lập lại mà còn lập lại nhiều lần tội Phản Quốc để đổi lấy sự tồn tại trên ngai vàng thống trị đẫm máu của chúng. Tội Phản Quốc ấy xin được tạm lược dẫn như sau:
1/ Ngày 4.9.1958 Chu-ân-Lai (Chou-En-Lai) Thủ-tướng cộng-sản Tàu công-bố lãnh hải của họ là 12 hải lý tính từ đất liền. Ngay sau khi nhận được bản tuyên bố nầy có cả bản đồ do sứ quán cộng sản Tàu tại Hà-Nội trao. Hồ-chí-Minh liền triệu tập Bộ-chính-trị đảng Lao-động (tên gọi của đảng cộng-sản vào lúc ấy). Tất cả thành-viên (có cả Võ-nguyên-Giáp) trong buổi họp đều nhất trí chấp thuận bản tuyên bố đó. Ngày 14.9.1958 Phạm-văn-Đồng nhân danh Thủ-tướng cộng-sản Việt-Nam gởi Công-Hàm công nhận bản tuyên-bố chủ quyền 12 hải lý của đảng cộng-sản Tàu, nghĩa là trực tiếp công nhận chủ quyền của cộng-sản Tàu trên các quần đảo Hoàng-Sa, Trường-Sa, (lúc đó đang thuộc lãnh thổ Việt-Nam Cộng-Hòa) theo đó thì lãnh hải của Tàu cộng là:
*/Phía Tây cận sát suốt dọc bờ biễn Việt Nam
*/Phía Đông sát tới lục-địa Phi-Luật-Tân (Philippine) vàBrunei.
*/Phía Nam sát tới Indonesia và Mã-Lai-Á (Malaisia).
Phần nầy, chúng tôi muốn trình bày một sự kiện lịch-sử đáng được trân-trọng ghi nhận trong quá trình giữ  Nuớc. Sự kiện đó là:
Ngày 19 tháng 1 năm 1974 cộng sản Tàu đem quân lấn chiếm quần-đảo Hòang-Sa lúc ấy đang do Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa trấn giữ. Trận chiến không cân sức vì phía Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa quân quá ít, chiến hạm quá nhỏ, vũ khí chỉ có đại bác, lại đang còn phải chiến đấu cam go khốc liệt với cộng sản Bắc Việt xâm lăng. Còn phía Tàu cộng chiến hạm lớn  đông gấp ba lần, vũ khí có cả hỏa tiển địa dịa; nên cuối cùng đành phải thất trận dù kẻ thù bị thiệt hại tổn thất gấp ba lần hơn kể cả nhân sự lẩn cả sở vật chất. Khi chúng ta bị mất  Hoàng-Sa, cộng-sản Việt-Nam không một lời phản đối dù chỉ tượng trưng lấy lệ.
2/ Ngày 30.12.1999 tại Hà-Nội Nguyễn-mạnh-Cầm bộ-trưởng ngọai-giao Việt-cộng và Tang Jianxuan Tiền-kỳ-Sâm) bộ-trưởng ngọai giao Tàu cộng ký “Hiệp-định về biên-giới trên đất liền Việt-Nam - Trung-quốc”. Hiệp-định nầy được quốc hội Tàu cộng thông qua ngày 29.4.2000 vàø quốc hội bù nhìn Việt cộng thông qua ngày 9.6.2000. Theo hiệp định nầy thì Tổ-Quốc Việt-Nam mất hơn 789 ki-lô-mét vuông bao gồm cả Ải Nam-Quan, Suối Phi-Khanh và Thác Bản Giốc.
3/ Ngày 25.12.2000 tại Bắc Kinh dưới sự chứng kiến của Trần-đức-Lương Chủ-tịch nuớc Việt-cộng và Jiang Zemin (Giang-trạch-Dân) Chủ tịch nước Tàu cộng đại diện hai đảng cộng sản Tàu - Việt ký “Hiệp-định phân định lãnh-hải Việt-Nam - Trung-Quốc”. Hậu qủa là Nhân-Dân Việt-Nam mất khỏang 9%  lãnh hải  tức khỏang hơn 10.000 ki-lô-mét vuông.( Bác-Sĩ Trần-Đại-Sỹ “Bí ẩn về việc đảng CSVN lãnh đạo nhà nuớc cắt lãnh thổ lãnh hải cho Trung Quốc và Trần-Gia-Phụng trong tác phẩm Ải Nam-Quan”).
Trong giới hạn của bài viết, tôi không thể nào nói hết  tội ác của cộng sản Việt-Nam. Nhưng từ những gợi ý đó và những gì do chính các bạn tìm hiểu được, có lẽ cũng đủ cho các bạn thấm thía, tự đặt câu hỏi, rồi tự chính mình phải trả lời. Theo tôi, câu hỏi chính vẫn là nỗi ray rức “Chúng ta phải làm gì cho Tổ-Quốc?”. Các bạn ơi, bản Quốc Ca đã nhắc nhở, thôi thúc chúng ta từng giây, từng phút :
Nòi giống lúc biến phải cần giải nguy
Người Công-dân luôn vững bền tâm trí
Hùng tráng quyết chiến đấu,
Làm cho khắp nơi vang tiếng
Người nước Nam cho đến muôn đời !
Các bạn trẻ thương kính và tin yêu của tôi,
Bây giờ chắc các bạn đồng ý sự chọn lựa, nghĩa là chúng ta cùng đi về một phía, cùng một chiến-tuyến. Xin đồng ý với các bạn, có khi chúng ta khác chiến-hào! Cuộc chiến cam go hôm nay đôi khi cũng cần nhiều chiến-hào để hỗ-trợ lẫn nhau, nhưng mũi súng của chúng ta phải cùng một hướng nhả đạn nhằm kết liễu sự ác độc cộng sản.
Tôi vẫn nghĩ  Cộng-Đồng dân Việt lưu-vong nơi hải ngoại hay đang bị lưu-đày ngay trong quê-hương đều quyết chí và ước mơ đập tan đảng cộng sản. Phải tức khắc loại trừ chúng ra khỏi giòng sinh-mệnh Dân-Tộc. Phải nhanh chóng tập họp dưới lá cờ Đại-Nghĩa Quốc-Gia. Hàng-ngũ người Quốc-Gia đã có sẵn từ lâu, đó là lực-lượng chủ-yếu, bên cạnh là những cựu đảng-viên, cán-binh, cán-bộ cộng sản nay vì lương-tâm của giòng máu Tiên Long thức tỉnh, trổi dậy, họ đã xé nát thẻ đảng, liệng bỏ  lá cờ đỏ sao vàng tanh hôi. Tất cả đã nhập cuộc vào hàng như Nguyễn-Hộ, Hoàng-Minh-Chính, Lê-Hồng-Hà, Đỗ-Trung-Hiếu, Nguyễn-Thanh-Giang, Trần-Văn-Khê Tiêu-Dao Bảo-Cự, Bùi-Minh-Quốc. Sĩ-phu Miền Bắc có Hà-Sĩ-Phu, Nguyễn-Chí-Thiện; sĩ-phu Miền Nam có Nguyễn-Đan-Quế, Nguyễn-Ngọc-Lan. Quốc-nội có Nguyễn-Đình-Huy. Hải-ngoại trở về có Lý-Tống, Trần-văn-Bá, Mai văn Hạnh, Hoàng cơ Minh, Võ Đại Tôn hàng-ngũ vẫn còn nối dài với Dương-Thu-Hương, Bảo-Ninh, Ma-Văn-Kháng... Thế-Giang, Lê-chí-Quang”, Nguyễn-Vũ-Bình, Phạm-hồng-Sơn, Lê thị Công Nhân, Trần khải Thanh Thủy, Phạm thanh Nghiêm.... Bạn ơi hãy tiếp tục những phát súng tiến công như lão tướng Trần-Hồng, anh thư Nguyễn thị Ngọc-Hạnh hầu nối tiếp sứ-mạng giữ nước để ngọn cờ đại-nghĩa phất phới oai hùng tung bay trong gió Rồng Tiên.
Xin bạn chớ thối chí vì lắm kẻ cho rằng Cộng-Đồng ta chia rẽ, phân-hóa. Đây chỉ là kết quả thiệt hại đương-nhiên của trận chiến, và cũng do sự  tuyên-truyền xảo-trá thổi phồng khuếch đại của bọn cộng sản, một phần cũng do sự thiếu thiện-chí, thiếu quyết-tâm nhập cuộc rồi tìm cách lý giải cho sự phủi tay trốn chạy của một số người ươn-hèn rúc ngủ.
Hãy hồi tưởng những cuộc biểu tình dũng mãnh trong những ngày Quốc-Hận. Những ngày loại bỏ tên Trần Trường ra khỏi Cộng-đồng tỵ-nạn khi hắn treo hình tên Quốc tặc Hồ-chí-Minh và lá cờ máu trong tiệm Hi-Tek của y. Tấn-công  các phái-đoàn cộng sản dù núp dưới bất cứ danh-nghĩa hay tổ-chức nào. Làm thất bại các chương trình của những tổ-chức do người bản-xứ vì quyền lợi  dung túng hổ trợ cho Việt-cộng. Vạch mặt, tố cáo sự  phản-bội của những tên Việt-gian cậy nhờ thế lực người Mỹ tiếp tay trưng bày biểu-tượng cộng sản hoặc vận-động ủng-hộ có lợi cho cộng sản. Tập thể Người Việt đang quyết vượt qua bao trở lực, quyết liệt xây dựng cho bằng được Tượng đài tri ân chiến sĩ Việt-Nam Cộng-Hòa và đồng minh Hoa Kỳ đã hy sinh vì chính nghĩa Quốc Gia trên tòan thế giơi mà điển hình là tại thị xã Wesminster Nam Califorina. Tính đến ngày 13.01.2004 đã vận động được 4 Tiểu-Bang, 2 Quận hạt, 2 đơn vị đảng Cộng-Hòa, và 70 Thành phố lớn tại Hoa-Kỳ không nhìn nhận cờ cộng-sản (màu máu đỏ với ngôi sao vàng) mà chỉ công nhận lá cờ Quốc-Gia (màu vàng ba sọc đỏ) là lá cờ thiêng liêng và chính thức biểu tượng cho Tổ-Quốc và Nhân-dân Việt-Nam. Vận động thành công  Quốc Hội Hoa Kỳ và Quốc Hội Âu-Châu cũng như tòan Thế-giới lên án đảng cộng-sản Việt-Nam.  Trên đây chỉ là một số ít trong rất nhiều họat động của những Người Việt chân chính cũng đủ phản bác luận-điệu tiêu-cực ấy.
Bạn hãy nhớ, Cộng-Đồng không ở nơi bọn cỏ đuôi chó, nơi bọn hoạt đầu, nơi bọn muôn năm bất mãn, nơi  bọn tay sai cộng sản núp bóng tỵ-nạn, nơi bọn vô trách-nhiệm, nơi bọn nuôi tham vọng lãnh-tụ xôi thịt, nơi bọn hiếu-danh khoe khoang, và dĩ-nhiên cũng không  phải nơi bọn cán-bộ cộng sản trà-trộn dưới lớp áo tỵ-nạn, bảo-lãnh,  du học. Cỏ rác loại nầy cộng-đồng nào cũng có. Nó là bức tranh vân cẩu của xã-hội.
Các bạn hỏi vào hàng rồi thì ai chỉ-huy để sớm chiến-thắng? Vị lãnh-tụ kiệt-xuất chưa xuất-hiện thì tạm thời ta làm lãnh-tụ của chính ta. Lực-lượng chưa đoàn-ngũ-hóa thì ta đánh du-kích. Xung trận, với năm tháng tất chúng ta sẽ trưởng-thành trong máu xương lửa đạn và rồi chúng ta sẽ tìm ra được vì sao Bắc-Đẩu cứu Quê-Hương. Tất-nhiên chúng ta không chủ-quan, không tự-kiêu, không tự ty, chúng ta cần tự-trọng, biết giữ-gìn Quốc-thể. Kiên-quyết không đối-thoại, không hòa hợp hòa giải với kẻ thù.  Nếu vì tình thế cần thiềt phải đối-thoại thì phải cẩn-thận và trên căn-bản công-bằng sòng phẳng. Nghĩa là đảng Cộng sản phải nhận trách-nhiệm về mọi băng hoại, mọi hoang tàn đổ nát, mọi đau thương tang tóc của Dân-Tộc kể từ khi nó xuất hiện đến hôm nay. Cộng sản phải bồi-thường và hoàn trả không điều kiện những tài-sản của Quốc-Gia, đoàn thể, tôn-giáo, đảng phái hay cá-nhân mà chúng đã chiếm đoạt. Đồng thời phải có trọng-tài Quốc-Tế; cũng xin đừng quá ỷ-lại hoặc quá ngây-thơ tin tưởng vào các tổ-chức Quốc-Tế hay bất-cứ một Quốc-Gia nào cả. Thái-độ vô trách-nhiệm, hèn nhát tránh né để chia chác quyền lợi của các nước đã ký vào Hiệp-định 1954, 1973. Cũng vì  các Văn bản, Giác thư  của các Ủy-ban kiễm-soát thuộc Liên-Hiệp-Quốc đã dẫn đến ngày 30-04-1975. Ngày đau thương nhất trong tất cả những ngày đau thương suốt cả chiều dài lịch-sử kể từ ngày Đức Hùng-Vương lập quốc. Kinh-nghiệm ấy, buộc chúng ta phải cảnh giác.
Trong mối tương-quan với đời sống chung-quanh, ta phải ra sức thuyết phục để họ hiểu cuộc chiến hôm nay chính-nghĩa thuộc về ta. Từ đó họ có cảm-tình và hỗ-trợ, đứng chung với ta.
Không nhân-nhượng kẻ thù bằng cách ta tham-gia vào các sinh-hoạt nhằm biểu-dương ý-chí đấu-tranh, hậu-thuẫn cho sự đột phá tại Quốc nội, giành lại thế chủ động để có được chủ quyền, tạo điều kiện xây-dựng đất nước an-bình, quê-hương hạnh-phúc, tự-do và nhân-quyền  cho Tổ-Quốc Việt Nam.
 Chúng ta hãy nghe nữ ca-sĩ Phương-Thanh được cộng-sản Hà-Nội gửi sang Hoa-kỳ trong kế họach “giao lưu văn-hóa một chiều” trả lời với phóng viên  Đức-Hà của tuần báo Việt Mercury, San  Jose, California ngày 9.3.2003 rằng: “Nói rằng Phương-Thanh hát dở hay không thích tiếng hát của Phương-Thanh thì Phương-Thanh xin tạ lỗi, nhưng nói Phương-Thanh là Việt-cộng thì tội nghiệp cho Phương-Thanh lắm!”.
 Trước khi tạm chấm dứt, chúng ta hãy lắng nghe nguyện-vọng của vài nhân-vật đã từng bỏ danh lợi, bỏ tương lai vì sức mạnh của lòng ái quốc, vì họ ngở rằng “cộng-sản là Thiên-đường”:
- Ông Vũ-Đình-Hùynh nguyên là bí thư cho Hồ-chí-Minh, Vụ-trưởng Vụ Lể-Tân, gần cuối đời đã tỉnh ngộ và đề nghị:”Muốn cho dân-tộc ta không thua kém các nước khác, muốn cho đất nước được thịnh vượng, dân ta không nghèo khổ mãi thì không thể thiếu một điều kiện tiên quyết: ấy là phải gạt bỏ sự lãnh đạo của đảng cộng-sản”.(Vũ-Thư-Hiên - Đêm giữa ban ngày)
- Ông Nguyễn-văn-Trấn từng là Phó xứ ủy Nam kỳ, Dân biểu quốc hội Việt cộng:”Tội-ác của chế độ nầy (chế-độ cộng-sản) từ 40 năm nay, thật nói không hết” ( Nguyễn-văn-Trấn  “Viết cho Mẹ và Quốc-hội).
Bác-sĩ Nguyễn-Khắc-Viện sau khi đậu Tiến-Sĩ Y-khoa tại Pháp ông theo Hồ-chí-Minh về nước để xây dựng xã hội theo chủ nghĩa Max nhân dịp Hồ-chí-Minh qua Pháp vào tháng 5.1946. Sau gần 50 theo đuổi lý tưởng cộng-sản, ông đã tỉnh ngộ. Tháng 6.1993 Bác-sĩ Nguyễn-Khắc Viện kêu gọi: Hãy cùng nhau bước vào một cuộc kháng chiến mới như sau: “Nay phải dựng nên một Mặt-trận dân-tộc, nhân dân, quốc tế rộng hơn, tiến hành một cuộc kháng chiến mới lâu dài hơn, đa dạng hơn. Mới mong hạn chế đuợc tham nhũng, bảo vệ được môi trường, giảm nhẹ bất công xã hội, phân hóa giàu nghèo, giữ gìn được thuần phong mỹ tục, phát huy tình người, tôn trọng quyền phụ nữ, trẻ em, các nhóm thiểu số...” (trích từ “Chia Tay ý thức hệ” của Hà-Sĩ-Phu)
Cuối cùng, chúng ta hãy cùng nghe Lời Hịch của Tiền Nhân:
.........................................................
Đừng ham phú qúy mà nguôi tất lòng!
Kiếp luồn cúi đỉnh chung cũng nhục,
Thân tự do chen chúc mà vinh!
Con ơi ! nhớ đức sinh thành,
Sao cho khỏi để ô danh với đời!
Chớ lần lửa theo lòai nô lệ,
Bán Tổ-Tiên kiếm kế sinh nhai!
Đem thân đày đọa tôi đòi,
Nhục nhằn bêu riếu muôn đời hay chi!
Sống như thế sống đê sống nhục,
Sống làm chi cho chật non sông !
Thà rằng chết quách cho xong,
Cái thân cẩu trệ ai mong có mình!
.. .. .. .. .. .. .. ... .. .. .. .. .. .. .. .. .. .. .. . .
Trích từ (“Hai chữ Nước Nhà” của Á-Nam  Trần-Tuấn-Khải)
Các bạn trẻ ơi,
Trước tiếng gọi thiêng-liêng của Sông Núi, trước nỗi uất hờn thống-hận của gần 80 triệu đồng-bào đang lầm than  rên xiết  trong địa-ngục đỏ. Xin đừng  ích kỷ, đừng hèn nhát bỏ quên họ, bởi vì như thế có nghĩa là: Vô trách-nhiệm, là đồng-lõa với tội ác. Thật đáng cho chúng ta suy nghĩ khi nghe Tổng-thống F. Miterrand của Pháp nói :”Im lặng là nuôi dưỡng áp bức” Xin hãy dõng dạc lên tiếng rằng : “Bằng tấm lòng nồng nàn yêu Quê-Hương chúng tôi đang có mặt và đang quyết liệt chiến đấu”.
Hãy dũng-cãm với tất cả nhiệt tình trong sáng và sức mạnh tuổi trẻ Việt Nam, thế-hệ kế-thừa giòng máu liệt oanh, bất-khuất của Tiền-nhân lẫy-lừng. Hãy bảo cho lũ Cộng nô và tay sai biết rằng lưỡi gươm tiêu-diệt bọn mãi-quốc cầu vinh đang trên tay chúng ta, bọn chúng là những tên tội đồ Dân-Tộc.
Hãy noi gương sự quyết tâm của thế hệ đàn anh  chúng ta:
“Bút giấy tôi ai đã cướp giựt đi,
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá”
( Trích “Lời Mẹ dặn” của Phùng-Quán)
Chúng tôi không bao giờ để các bạn trẻ yêu quý chiến đấu đơn độc. Chúng tôi thề sát cánh bên các bạn trong bất cứ  hoàn cảnh nào, và bất-cứ nơi đâu cho đến khi chúng tôi trút hơi thở cuối cùng trên cõi đời tạm bợ nầy để được trở về hầu hạ, nghe lời phán dạy của Đức Hùng-Vương Quốc Tổ của giống nòi Lạc-Việt. Hãy biến những giọt nước mắt cho quê-hương hôm nay thành gươm súng lao về phía giặc.
Thế là chúng ta đã nhìn được nhau. Vậy chúng ta hãy lên đường cất cao tiếng ca để tim ta thêm rộn ràng quyết liệt:  “Này Công-dân ơi, đứng lên đáp lời sông núi”.
Nào, hãy cùng bước, đạp lên gai chông, xem thường hiểm nguy hỡi những bàn chân Phù-Đổng hôm nay./-
Tống Phước Hiến