Saturday, November 23, 2013


                             Phố Tàu trên Đất Việt

Tàu cộng và Việt cộng dùng thuật ngữ “tôn trọng chứng cứ pháp lý, xem xét các yếu tố liên quan lịch sử, tôn trọng cuộc sống đã được ổn định của dân chúng, chiếu cố quan ngại của nhau…để từng bước Tàu cộng, Việt cộng thỏa hiệp và thi hành việc cướp nước và bán nước. Để tạo cho cái gọi là sự kiện lịch sử, chứng cớ VN là lãnh thổ của nước Tàu. Tàu cộng đã dàn cảnh cho hai tên lãnh đạo cao cấp nhất của chúng là Giang Trạch Dân đến tắm tại Hội An Đà nẳng vào ngày 27.02,20002 và Hồ cẩm Đào vào tháng 11-2006 . Chọn lựa Hội an Đà Nẳng để tắm, tất nhiên Lãnh tụ Tàu cộng mặc nhiên khẳng định: Hoàng Sa là đất của Tàu và biển vùng Ðà Nẳng là biển của Tàu. Giang Trạch Dân, Hồ cẩm Đào đi đến Ðà Nẳng và Hội An là đi thăm viếng vùng đất thuộc chủ quyền của chúng, chớ không phải đi thăm viếng một địa phương của nước VN. Tắm biển Hội an Đà Nẳng mang ý  nghĩa là tắm biển Trung Quốc "ta về ta tắm ao ta". Sự kiện Giang Trạch Dân và Hồ cẩm Đòa phơi mình trên biển Hội An, là Giang Trạch Dân và Hồ cẩm Đào muốn long trọng tuyên bố quyền của Bắc kinh trước thế giới và chư hầu Hà Nội.

          Tàu cộng và Việt cộng hợp pháp hóa hành động cướp nước và bán nước bằng cách thực hiện cái gọi là chứng cứ lịch sử xong. Bây giờ là chứng cứ về dân cư và cuộc sống thực tế mà Tàu cộng và Việt cộng hai bên chiếu cố quan ngại của nhau. Chứng nầy được gọi là những khu phố Tàu trên đất Việt.

          Sau ba ngày 2,3,4/9/1008 thương nghị giữa Tàu cộng và Việt cộng tại Thành Đô, kế hoạch tiệm tiến xâm thực của Tàu cộng và bán nước của Việt cộng được diễn tiến như sau:

         1/ Ngư dân VN bị Tàu cộng ngăn cấm, bắt giữ, đánh đập, phạ vạ, tịch thu, giết chết khi hành nghề trong khu vực thuộc chủ quyền của VN.

          2/ Người dân biểu tình phản đối 9 đoạn lưỡi bò xâm lăng của Tàu cộng thì bị công an và côn đồ Việt cộng đàn áp đã man, đánh chết, bị tuyên những bản án nặng nề. Những biểu ngữ rất bình thường và ôn hòa “Trường Sa, Hoàng Sa của Việt Nam hay No U bị xem là tang chứng để truy tố và định tội.

          3/Tàu cộng được vào sâu trong lãnh thổ VN để khai thác rừng phía bắc tỉnh Quảng nam, bauxite và titan cao nguyên Trung phần . Chủ trương nầy của CSVN đã mở đường cho hàng vạn người Trung Quốc, dự kiến có khoảng 20 ngàn công nhân Trung Quốc, sẽ vào làm việc tại Tây Nguyên. Cùng đi với đoàn người Tàu dưới ngụy thức chuyên gia, công nhân lao động là cơ quan An ninh mật và gián điệp và quân lính Tàu.

          4/Tàu cộng trúng thầu hầu hết các công trình xây dựng hay đầu tư tại VN

          5/Những con đường huyết mạch nối liền lãnh thổ hai nước như Lạng Sơn – Hà Nội, Móng Cái – Hạ Long, Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng được kiến tạo thành đường cao tốc, hay đường sắc, những con đường nầy sẽ được thông suốt đến những nơi Tàu cộng có cở sở trúng thầu .

       A-./Sự kiện:

         I/- Miền Bắc Việt Nam:  

          1/ Hà Nội: Tuy mật độ quần cư của người Tàu chưa đến mức hình thành phố Tàu, song sự phát triển  Hoa ngữ phổ biến, nên hệ thống ATM của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam vừa bổ túc thêm tiếng Tàu bên cạnh Việt và Anh ngữ.

          2/ Hải Phòng: Khi các công ty Tàu cộng trúng thầu xây nhà máy nhiệt điện Hải Phòng 1 ở xã Tam Hưng, huyện Thủy Nguyên, thì hàng ngàn công nhân Tàu ồ ạt kéo sang để xây nhà máy. hàng trăm quán bia, tạp hóa, quán nhậu, quán karaoke, mát-xa, cà phê, nhà trọ… với các bảng hiệu đều viết bằng chữ Tàu. Số lượng công nhân Tàu làm việc tại nhà máy này là bao nhiêu người, có giấy phép hay không thì gần như không cơ quan nào nắm được. Một số bọn nầy đã được cưới vợ VN.

           3/Thành phố Hạ Long:  Báo Khám Phá ra ngày Thứ Sáu 12-7-2013 với tựa đề “Hạ Long: Phố ta hóa… phố Tàu” .cho biết, tuyến đường du lịch mang tên Hạ Long chạy dọc bãi biển Bãi Cháy của TP. Hạ Long giờ đây giống một khu phố

Tàu đầy rẫy biển hiệu khách sạn, cửa hàng bán đồ lưu niệm in chữ Tàu. Ngay hai khu mua sắm lớn nhất dành cho du khách là Chợ đêm Hạ Long và Siêu thị Thanh Niên cũng “chú thích” chữ Tàu nổi bật hơn cả chữ Việt.

          Dân ở đây cho biết, mấy năm qua, khách Tàu đến rất đông. Có những buổi tối, họ đi từng đoàn, ăn uống ở các quán ăn trương biển hiệu chữ Tàu. Phần lớn biển hiệu quảng cáo đã sai luật, vì: “Điều 18 của Luật Quảng cáo quy định đối với biển hiệu quảng cáo: Trong trường hợp sử dụng cả tiếng Việt, tiếng nước ngoài trên cùng một sản phẩm quảng cáo thì khổ chữ nước ngoài không được quá 3/4 khổ chữ tiếng Việt và phải đặt bên dưới chữ tiếng Việt. Tuy nhiên, tại đây, chữ Tàu sánh ngang chữ Việt trên biển hiệu của đủ mọi loại hình dịch vụ. Từ ăn uống, ngủ nghỉ, đồ lưu niệm, thời trang, cửa hàng tạp hóa bán đồ lặt vặt cũng được “đính kèm” chữ Tàu.

          4-Tỉnh Bắc Ninh, và tỉnh Ninh Bình: Huyện Yên Khánh tỉnh Ninh Bình và Làng gốm Đông Triều , làng Dân Ca Quan HọTừ Sơn,  làng mộc Đồng Kỵ truyền thống từ hàng trăm năm của Bắc Ninh đang dần bị biến thành… “khu phố tiếng Tàu”. Đi dọc con đường làng vào thôn Đông và Phù Khê Thượng (Phù Khê, Từ Sơn, Bắc Ninh)  người ta treo cả biển chỉ đường bằng tiếng Tàu,.

          5- Tỉnh Hà Tỉnh: Trải dài 30 km dọc quốc lộ 1A qua các xã Kỳ Liên, Kỳ Long, Kỳ Thịnh (Kỳ Anh) xuất hiện hàng trăm quán cắt tóc, cơm, nhà hàng, khách sạn biển hiệu Tàu. Khu kinh tế Vũng Áng huyện Kỳ Anh có trên 1.400 lao động, trong đó Tàu cộng là 412 người, Đài Loan 300 người. Thực tế con số này còn có thể lớn hơn. Công nhân Tàu từ chối vào quán không có tiếng Tàu.

         II/- Tây Nguyên Việt Nam: Tại Tây Nguyên, không phải là phố Tàu bằng chữ mà có cả khu công nhân người Tàu làm việc ở mỏ bauxite Tân Rai – Lâm Đồng. Khu mỏ này chủ yếu là người Tàu, công nhân VN rất ít. Với đà khai thác các mỏ bauxite, chẳng bao lâu nữa, Tây Nguyên sẽ là lãnh địa của người Tàu.

         III/-Miền Nam Việt Nam:

               A-/ Bình Dương : Bình Dương là tỉnh đi đầu trong việc xây dựng thành phố mới cho di dời các cơ quan hành chính chủ chốt của tỉnh về thành phố này. Điều đáng nói là ngay sau khi đầu tư xây dựng một số cơ sở hạ tầng như đường sá, cầu cống,… thì xây dựng ngay giữa trung tâm Thành Phố Mới ở Bình Dương dự án dành riêng cho người Tàu được đặt tên là khu: ” Đông Đô Đại Phố”  do chính Công ty Becamex IJC tỉnh Bình Dương làm chủ đầu tư. Theo báo chí trong nước, phía sau những khu công nghiệp tỉnh Bình Dương mọc lên phố Tàu với hàng loạt cửa hàng, quán ăn, điểm massage … của người Tàu mà chủ yếu là công nhân tại những nhà máy do chủ người Tàu đầu tư. Ngoài công việc tại những nhà máy, khu công nghiệp họ còn mở nhà hàng, khách sạn, quán ăn, trường học…Tại những nơi nầy thì từ nhân viên đến chủ quán đều dùng tiếng Tàu, và đều nhập từ Tàu. Bảng giá được niêm yết bằng hai đơn vị là Nhân dân tệ và Việt Nam đồng. Rất nhiều trung tâm dạy tiếng Hoa do người Trung Quốc mở nhằm dạy người Việt Nam. Bảng hiệu, thực đơn được kẻ vẽ, in ấn xen kẽ cả hai ngôn ngữ Việt – Tàu.

            B/ Hệ quả:

           1/Xâm lăng bằng dân số, bằng chứng cứ lịch sử, va bằng nội gián :

              a/ Sẽ có nhiều cặp vợ chồng kiểu Trọng Tủy Mỵ Châu. VN là đất sống  hợp pháp cho những người Tàu vừa là di dân vừa là những tên lính xâm lược mai phục làm nội gián khi có chiến tranh.

               b/ Làn sóng di cư người Tàu sang VN không ngừng gia tăng, họ sang nước ta chủ yếu là lao động phổ thông từ các gói thầu EPC (1). Theo thống kê không chính thức của các cơ quan báo chí thì hiện có khoảng 90% gói thầu EPC đang được các nhà thầu Tàu thực hiện, trong đó, ngoài các nguyên vật liệu, thiết bị cần thiết thì ngay cả lực lượng lao động phổ thông cũng được các nhà thầu này “xuất khẩu” sang Việt Nam.

        2/ Xâm lăng qua phương tiện kinh tế:

              a/ Tàu sẽ thắng thầu nhiều dự án và họ sẽ đưa người của họ sang làm việc và từ đó, đường xá ghi bằng tiếng Tàu sẽ xuất hiện, khu phố Tàu ngày càng nhiều.

              b/ Hàng hóa Tàu đầy trên thị trường VN, người Tàu sang VN làm việc và sinh sống ngày càng đông. Nếu cứ đà này, không biết mươi năm nữa, có bao nhiêu khu phố Tàu trên nước Việt.Giải pháp cho câu hỏi nầy là CSVN phải bị sự sụp đổ.

 

          3/ Xâm lăng qua phương tiện văn hóa giáo dục:

              a/ Sách vở, ấn phẩm từ Tàu tuồn sang để truyền bá văn hóa Tàu, cờ Tàu trên sách học sinh, trong siêu thị VN, hình ảnh nước Tàu choán vị trí trên khu triển lãm du lịch của VN.

              b/ Hàng hóa Tàu tràn ngập VN. Người Tàu làm VN mang đậm bản sắc Tàu, như  trang trí theo kiểu Tàu, treo đèn lồng Tàu trong các Lễ Tết. Người VN sẽ có cảm tưởng đang ở trên đất Tàu, và đất nước VN bỗng dưng bị biến mất.

        4/ Xâm lăng bằng cách tiêu diệt sinh lực dân trí và dân khí:

              a/ Dùng thói côn đồ đánh đập bắt nạt người dân hiền lành để uy hiếp và gây tâm lý kinh sợ, chấp nhận than phận, không còn ý chí và khí phách quật cường.

              b/ Ban đầu chúng dùng tình cảm bạn bè để dẫn dắt thanh niên vốn nghèo khổ ít học thành kẻ hưởng thụ, lêu lỏng để rối nợ nần, nghiện nập ma túy đần dà lệ thuộc vào người Tàu, tôn sùng người Tàu thành ông chủ và sẳn sàng thi hành mệnh lệnh kể cả việc làm tay sai .

               c/ Đội quân xâm lăng Tàu cộng dưới dạng di dân nầy tổ chức thành đội ngũ, băng đảng  với các tên trùm hung hang bạo ngược như bản chất cố hữu từ tổ rtie6n của chúng. Chúng sẵn sàng xử bất kỳ người VN nào đụng đến phe nhóm chúng. Hiện nay, nọn Tàu nầy đã nắm hoàn toàn quyền lực và thế lực ở các nơi chúng trú ngụ. Vì vậy, công an cộng sản chẳng ra gì dưới mắt chúng .

    d/ Người VN ở những vùng có bọn Tàu cộng xâm lăng nầy cùng có tâm trạng đã bị xem là kẻ ngoại nhân, họ không còn là chủ của mảnh đất của họ hay của cha ông để lại, thay vào đó là cảm giác lép vế, thua thiệt trước sự giàu có và hách dịch của bọn người Tàu. Người Tàu có đủ  mọi thứ quyền lợi và quyền lực, thậm chí có nhiều cán bộ, công chức tỏ ra xu phụ, xum xoe người Tàu. Nếu không có biến chuyển chính trị thay đổi chế độ thì chẳng bao lâu nữa, người Tàu nghiễm nhiên trở thành ông chủ đích thực của người Việt trên đất Việt Nam.

      C/ Nổi lòng người dân :

             a/ CSVN vẫn quản lý dân chúng VN rất chặt chẻ trong cư trú lẫn kinh doanh nhưng lại không dám đụng chạm tới người bọn ngườiTàu di dân lậu nầy.

            b/ CSVN quy định chặt chẽ về tỷ lệ, kích thước chữ nước ngoài trên bảng hiệu nhưng bảng hiệu chữ Tàu thì CSVN không dám thắc mắc.

            c/ Tại sao trong khi hàng triệu thanh niên Việt Nam đang bị thất nghiệp và trở thành nạn nhân của những tệ nạn như buôn người, đi làm thuê rồi bị cưỡng bức lao động trên xứ người thì hàng vạn lao động phổ thông của người Tàu ào ạt đổ vào VN làm việc?

            d/ Tại sao các cảnh báo về sự cạn kiệt tài nguyên không được CSVN quan tâm và vẫn bị CSVN nhắm mắt làm ngơ cho ào ạt chảy sang Tàu?

  e/Tại sao doanh nghiệp Tàu và cả người Tàu được hưởng nhiều biệt đãi mà người Việt không được hưởng ngay trên chính xứ sở của mình?

 C/ Một đầu mối sang giá: người ta sẽ không ngạc nhiên với những gì trên đây nếu biết rằng ngay từ ngày 7/5/2007 một số cán bộ đảng viên đã và đang công tác tại “Ban Tổ chức Trung Ương, Ủy Ban Kiểm Tra Trung Ương, Ban Bảo vệ Chính trị Nội bộ Trung Ương  và một số cơ quan trọng yếu cơ mật khác của Đảng và Nhà nước tố cáo Hoàng Trung Hải Bộ trưởng Công nghiệp khai man lý lịch: Bố đẻ của Hoàng Trung Hải tên là Sì Sói, sinh quán ở Long Khê, Chương Châu, Phúc Kiến, Trung quốc. Nhưng nhờ sự tố cáo nầy mà Bắc Kinh Nguyễn Tấn Dũng phải đặt Hoàng Trung Hải vào ghế Phó Thủ tướng.

          Tên Phó Thủ tướng gốc Tàu này được giao nhiệm vụ phụ trách các kế hoạch về: công nghiệp, thương mại, nông nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải… nghĩa là  nắm trọn vẹn nền kinh tế VN. Đó là lý do giải thích tại sao hầu hết các công trình trọng điểm quốc gia đều rơi vào tay nhà thầu Tàu cộng. Hơn 20 năm qua, FDI (2) từ Tàu cộng chỉ chiếm 1,5% tổng vốn FDI đổ vào VN. Nhưng nếu là tổng thầu EPC thì tới 90% các công trình điện, khai khoáng, dầu khí, luyện kim, hóa chất… của VN đều do Tàu cộng đảm nhiệm, vì vậy mà người Tàu đã theo chân các dự án này tràn sang hầu khắp các tỉnh thành VN rồi tìm mọi cách để sinh cơ lập nghiệp.

        Hiện nay, tại làng Đồng Sơn, Quỳnh Giao, Quỳnh Phụ, Thái Bình, Hoàng Trung Hải lập một nghĩa trang cho tộc họ của hắn, trên cổng tam quan vào khu mộ nầy có ghi dòng chữ trên cột vàng bên trái: “Hoa Kiều Tiên Hữu Tổng Mộ”

       D/ Kết luận:

          1/Trong tương lai không xa, người VN sẽ không còn được làm chủ trên chính mảnh đất tổ tiên của mình?

          2/ CSVN ưu ái xây nhiều Phố Tàu, rồi cho dân Tàu nhập cư ồ ạt thì trong vài chục năm nữa, người dân Việt Nam sẽ đi về đâu?

           4/ Tại sao xây dựng khu phố Tàu ngay trung tâm đô thị, trung tâm hành chính của tỉnh? Liệu người Việt Nam có bị cấm không được bén mảng đến đây -trên chính đất nước Việt Nam của mình như đã xảy ra tại một Casino quốc tế ở Đà Nẵng, hay một sân gofl ở ngay địa đầu Móng Cái?

      Nếu có người Việt Nam nào ngao ngán thốt lên :”Ước gì tôi là người Trung quốc sống trên đất Việt Nam!” thì nhà cầm quyền Hà Nội còn chút gì cho quê hương, cho Tổ quốc , cho giống nòi!

                 Tống Phước Hiến
             (tổng hợp và biên soạn)

 -------------------------

Chú thích :

1/ EPC : (Engineering, Procurement and Construction contrac) - Hợp đồng tổng thầu, nghĩa là “Hợp đồng thiết kế, cung cấp thiết bị công nghệ và thi công xây dựng công trình”  là một loại hợp đồng xây dựng mà nhà thầu thực hiện toàn bộ các công việc từ thiết kế kỹ thuật hoặc thiết kế bản vẽ thi công, cung ứng vật tư, thiết bị đến thi công xây dựng công trình, hạng mục công trình và chạy thử bàn giao cho chủ đầu tư.

2/ FDI: (Foreign Direct Investment) - đầu tư trực tiếp nước ngoài, là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này)

Saturday, August 17, 2013

                       Kính gởi
           Những Người Bạn Trẻ
              
                               TốngPhước Hiến

                        
                     Người Việt ở California biểu tình ngày 07/06/2013
                              tại vùng sa mạc Palm Springs phản đối
                         Tập Cận Bình, chủ tịch Tàu cộng sang Hoa Kỳ

                                              **********

                  Rất tình cờ, có lần tôi gặp bạn,
Đứng dưới cờ trong một buổi sớm mai
Hai thế hệ, nhưng cùng chung ý chí
Và cùng đau nỗi vong quốc u hòai
             
               Bạn là kẻ khi rời xa Tổ quốc,
               Nuớc non mình tràn ngập những đau thương.
               Chưa đủ lớn để đối dầu hung bạo
               Nhưng kế thừa giòng oanh liệt can trường.
             
Lìa Non sông khi tuổi đời thơ dại,
Theo mẹ cha tìm quyền sống làm người.
Có bạn kể sinh ra trên xứ lạ
Nhưng ưu tư về Tổ quốc Giống nòi.

             Tôi là kẻ trong triệu người đi trước
             Chận quân thù, từng thước đất Quê hương,
             Đau vận Nước, khóe mi tràn máu trắng
             Và ngậm ngùi, cất bước lạc muôn phương

Gặp nhau đây, cùng dưới một bóng cờ,
Lòng bỗng thấy dạt dào muôn cảm xúc,
Nhìn dáng em tôi thấy vạn miềm mơ
Và cũng thấy tuổi đời như trẻ lại.

            Tôi muốn nói Quê hương mình tan tác,
            Người dân đen dói từng hạt cơm rơi
            Bao mạch sống bị bạo quyền cướp đoạt,
            Bao uất hờn không nói được bằng lời.

Đạo lý tiêu tan, cuộc đời cơ nhục
Đói tự do và đói cả lòng nhân
Bạo quyền cuỡng chiếm luôn công lý
Dân Việt mình chỉ là thứ nô dân.

            Mồ mả, phố phường, đồi xanh, thác đẹp
            Nay trở thành tài sản của gian quyền
            Chúng chia chác, bán buôn và hoan lạc
            Nhỏ lệ buồn, Sông Núi hận triền miên

               Hãy cùng nhau hướng về non nuớc Việt
               Vạch mặt gian quyền dâng đất Quê Hương
Hãy đòi lại từng phần xương máu thịt
Đã tách rời khỏi Tổ Quốc yêu thương

     Hãy đứng dậy như Tổ Tiên đã đứng
     Hướng hận thù về cộng sản bạo tàn,
     Hãy đánh đuổi bọn sài lang tham ác
     Để muôn năm bền vững giãi giang san.

Toàn dân Việt đang hướng về các bạn
Tuổi trẻ kiêu hùng, dòng giống Viêt Nam
Lịch sữ hôm nay thuộc về tuổi trẻ
Đem Nhân Quyền, Dân chủ thế hờn căm
                     Là Tuổi Trẻ, khi Non Sông lâm nạn
     Không an thân cúi mặt sống ươn hèn
     Bằng kiêu hãnh, dám xông vào lửa đạn
     Quyết hy sinh cho Tổ Quốc trường tồn.


                            Tống Phước Hiến

        Viết nhân  ngày 7.6.2013 cùng  tham dự biểu tình do năm đoàn thể trẻ trẻ: Thanh Niên Cờ Vàng, Tuổi Trẻ Yêu Nước Hải Ngoại, Thanh Sinh Phó Ðức Chính, Thanh Niên Truyền Thống Việt, và Thanh Niên Sinh Viên Lạc Hồng tổ chức
         Và cũng để Kính gởi các bạn trẻ Uyên Phuong, Nguyên Kha, Minh Hạnh Việt Khang với sự kính trọng và kỳ vọng
                

Thursday, August 1, 2013

Tư tưởng Phan Châu Trinh và hiện tình Việt Nam

Đỗ Thái Nhiên

Đối diện với mỗi tình huống của đời sống, con người đều có những suy nghĩ riêng nhằm giúp cho xã hội có được những ứng xử thích nghi. Đó là mối liên hệ giữa tư tưởng và hiện tình của đời sống. Bây giờ chúng ta hãy tìm hiểu tư tưởng Phan Châu Trinh và hiện tình Việt Nam.

Tư tưởng Phan Châu Trinh đã chỉ ra rằng: bất cứ xã hội nào cũng có ba khối vấn đề căn bản: dân sinh, dân trí, dân khí.

Dân sinh Việt Nam.

Dân sinh là hoạt động của guồng máy kinh tế ở mỗi quốc gia. Hoạt động này làm cho đời sống thể chất của người dân đạt mức cân bằng. Như vậy phục vụ người dân là mục tiêu hàng đầu của kinh tế. Thế nhưng trong thực tế, một số tư nhân đã nhân danh “quyền tự do kinh doanh” của cá nhân để sản sinh ra chế độ tư bản tư nhân.  Chế độ này mở đường cho tệ trạng cá lớn nuốt cá bé trên lãnh vực sản xuất và tiêu thụ. Dĩ nhiên đây là một hình thức hoạt động kinh tế phản nhân quyền.
Đảng CSVN đã nhân danh “quyền làm chủ tập thể” của quần chúng nhân dân để thâu tóm toàn bộ tài nguyên quốc gia vào guồng máy kinh tế độc quyền của đảng. Từ đó, chế độ tư bản nhà nước ra đời. Tư bản nhà nước kiểu Cộng SảnViệt Nam độc hại hơn tư bản tư nhân vạn phần ở điểm  đảng viên Cộng Sản Việt Nam hành sử quyền ưu tiên trong kinh doanh với sự hổ trợ tích cực của hệ thống quyền bính do đảng CS tổ chức và điều động. Vụ Vinashin 2006 và các năm kế tiếp gây thiệt hại cho ngân quỹ quốc gia khoảng 4 tỷ Mỹ Kim. Mới đây, 01/2013, qua những tranh cãi giữa Thanh Tra Chính Phủ và ông Văn Hữu Chiến Chủ Tich UBND TP Đà Nẵng, dư luận được biết TP Đà Nẵng và các tỉnh, thành khác thông qua tác vụ “Chuyển nhượng quyền sử dụng đất” đã tham nhũng số tiền nhiều tỷ Mỹ Kim( Báo Thanh Niên 19/01/2013).  Hai vụ tham nhũng vừa nêu chỉ là hai giọt nước trong biển tham ô tại Việt Nam dưới chế độ Cộng Sản.  Tham ô là ác quỷ của dân sinh. Vì vậy , một trong những mục tiêu hàng đầu của tư tưởng Phan Châu Trinh là lời dặn dò: mọi người Việt Nam hãy quyết tâm xây dựng cho người dân một đời sống sung mãn trong no và ấm: HÂỤ DÂN SINH.  Muốn có được hậu dân sinh, người dân Viêt Nam phải đấu tranh đòi hỏi CSVN, một tập thể độc tài và tham ô, phải trả lại quyền điều hành guồng máy quốc gia vốn của nhân dân, về lại với nhân dân.

Dân trí Việt Nam

Có ý kiến cho rằng “hiểu biết là sức mạnh”. Thật vậy, muốn có sức mạnh để diệt trừ tham ô và để xây dựng cuộc dân sinh hạnh phúc, dân trí ( hiểu biết của người dân ) phải được nâng cao. Dân trí gồm hai mặt:

1)Giáo dục đời sống thể chất: Giúp con người có nghề nghiệp để sinh sống tự lập. Đồng thời, nuôi sống gia đình, tiếp tay xây dựng xã hội.

2)Giáo dục đời sống tinh thần: Giúp con người hiểu biết quyền và nghĩa vụ làm người. Đây là lãnh vực giáo dục dân trí mà nhà ái quốc Phan Châu Trinh nhấn mạnh là KHAI DÂN TRÍ . Từ nhiều thập niên qua, do gian ý  bảo vệ ngôi vị độc quyền cai trị đất nước để tự do tham ô và củng cố quyền hành, chế độ CSVN áp dụng chính sách giáo dục hai mặt:

                  Một là giáo dục học đường: sinh viên học sinh được nhồi sọ là phải trung với đảng, hiếu với dân. “Hiếu với dân” chỉ là lời dạy sáo ngữ. Trung với đảng là đảng nói sao, phải  nghe vậy, mọi phản biện đối với đảng đồng nghĩa với  đaị phản động.

                 Hai là giáo dục xã hội: CSVN ngấm ngầm truyền bá loại văn hoá cá nhân hưởng thụ, tiền bạc là trên hết, dối gạt là thông minh. Từ đó con người sống trong xã hội chẳng khác gì con vật sống với bầy, đàn động vật: chỉ biết “chăm sóc cho bộ lông của chính nó”, tương lai của đất nước đã có đảng lo.  Một cách căn bản, đảng có hai điều lo: lo tham ô và lo hạ cánh an toàn.

Dân trí Việt Nam ngày nay là “dân trí bỏ rơi việc nước”. Đối diện với “dân trí ngu dân” kia. Tư tưởng Phan Châu Trinh hô hào “ Khai dân trí ”.  Khai ở đây là mở trí cho người dân để họ hiểu rằng lương tâm làm dân đòi hỏi người dân có bổn phận tích cực tham dự việc nước thông qua cấu trúc chính trị dân chủ đa nguyên.

Dân Khí  Việt Nam

Dân gian thường nói: “ Có thực mới vực được Đạo”.  Đạo ở đây là đạo yêu nước. Thực là dân sinh. Thấy và hiểu được Đạo là dân trí.  Có đủ sức và đủ can trường để “Vực Đạo” hay không, đó là vấn đề dân khí.  Làm thế nào để củng cố và tăng cường dân khí, để chấn dân khí? Những hành động của Phan Châu Trinh trong đấu tranh chánh trị để phục vụ tổ quốc là lời giải đáp cho câu hỏi vừa nêu.

Tại Quảng Nam, mùa hè năm 1906 cùng với hai nhà cách mạng Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp,  trong một lần vận động cho tư tưởng Duy Tân, Phan Châu Trinh đã kêu gọi quần chúng Việt Nam hãy “Tự lực khai hoá”. Lời kêu gọi vừa kể hàm ý: chỉ có người Việt mới yêu thương người Việt, chỉ có người Việt mới có khả năng bảo vệ và phát triển đất nước Việt Nam.

Phan Bội Châu sanh năm 1867. Phan Châu Trinh sanh năm 1872. Cả hai nhà chí sĩ này đều chống Pháp dứt khoát.  Phan Bôi Châu chủ trương chống Pháp bằng hoả lực quân sự.  Phan Châu Trinh chủ trương chống Pháp bằng cách vừa tự lực khai hoá quần  chúng ( hậu dân sinh, khai dân trí, chấn dân khí ) vừa vận dụng mọi tác động của mặt trận văn hoá, chính trị, quốc nội, quốc tế để từng bước một lấy lại độc lập cho Viêt Nam. Mặc dầu khác đường lối đấu tranh nhưng hai chí sĩ họ Phan vẫn giữ lòng thân mến và tương kính, giữa hai người không hề có một tranh cãi phủ định đối phương.  Dị biệt tư tưởng nhưng vẫn chấp nhận lẫn nhau trên lý tưởng độc lập dân tộc.  Đó là chân ý nghĩa của dân chủ đa nguyên.

Phan Châu Trinh vừa chống thực dân Pháp vừa chống những phong tục tập quán tệ hại trong xã hội Việt Nam hồi bấy giờ.  Ông chống kiểu học từ chương, chống mê tín, dị đoan.  Ông kêu gọi học quốc ngữ, cắt tóc ngắn, cắt móng tay… Phan Châu Trinh là nhà cách mạng đấu tranh cho một xã hội Việt Nam văn minh nhân bản.  Phương pháp đấu tranh của Ông có tính can trường, dứt khoát, bền bỉ nhưng tuyệt đối tránh quá khích, tránh vơ đũa cả nắm.

Những suy nghĩ và hành động của Phan Châu Trinh trong nỗ lực chống thực dân Pháp đã cô đọng lại thành lời minh xác rằng: muốn tổ quốc Việt Nam trường tồn và thịnh vượng mỗi cá nhân công dân cần tu học nhiệt tình yêu nước, toàn bộ dân tộc phải bền bỉ xây dựng và phát triển nội lực dân tộc trên nền tảng đoàn kết và tương nhượng của tư tưởng dân chủ đa nguyên.  Đó là dân khí.  Mức độ dân khí tại Việt Nam ngày nay được thẩm định thông qua hai sự kiện:

Một là thái độ “bỏ rơi việc nước” của một thành phần quần chúng. Thái độ này là hậu quả của chủ trương “dân trí ngu dân” của nhà cầm quyền CSVN.

Hai là chính sách “ ác với dân, hèn với giặc” của giới đương quyền Hà Nội.
Các sự kiện nêu trên vừa đẩy dân khí của quần chúng Việt Nam xuống tới mức thấp nhất vừa làm cho đại hoạ Bắc xâm ngày càng tiến gần tới quả tim Việt Nam. Không còn nghi ngờ gì nữa, chấn dân khí là xuất phát điểm tiên khởi của con đường cứu nước. 

Lịch sử loài người đã cho thấy: giới tu sĩ phải mất biết bao công lao và thời giờ cho công cuộc truyền bá một đạo giáo. Dân khí cần được xem trọng như tôn giáo. Mỗi người Việt Nam hãy là một giáo sĩ của đạo DÂN KHí.  Có như vậy dân khí mới thực sự có cơ hội được chấn hưng.

Tóm lại,
Dân sinh Việt Nam hiện bị đè bẹp dưới ách kinh tế quốc doanh tham ô và bóc lột. Guồng máy kinh tế phi nhân này được nguỵ danh dưới tên gọi “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Dân trí Việt Nam hiện bị hôn mê trong văn hoá bầy đàn của động vật:  mỗi con vật chỉ biết và chỉ có khả năng “chăm sóc cho bộ lông của chính nó”. Cha đẻ của loại văn hoá động vật kia chính là đảng CSVN.

Dân khí Viêt Nam hiện đang bị hai tảng đá dân sinh và dân trí như vừa mô tả kéo tuột dốc theo tốc độ ngựa phi.

Làm thế nào người Việt Nam có thể biến phương châm “Hậu dân sinh, Khai dân trí, Chấn dân khí” trở thành hành động sống cụ thể của xã hội?  Câu trả lời nằm ở lương tri ái quốc của mỗi người Việt Nam và ở kho tàng tư tưởng cách mạng của Chí Sĩ Phan Châu Trinh./.

Đỗ Thái Nhiên  (03/2013)

Thursday, January 3, 2013


30 năm sau: kẻ “chiến thắng” xin qui hàng.

                                      ÐỖ THÁI NHIÊN
                                            
           Có thể nói được rằng: mỗi người có một kiểu nhìn riêng đối với Dịch Học. Mỗi người có ngôn ngữ, cú pháp riêng để diễn tả Dịch Học. Thế nhưng, mọi người đều dễ dàng đồng ý với nhau: cuối con đường đi tìm nội dung cốt lõi của Dịch Học, con người sẽ bắt gặp hai chữ:  “PHẢN PHỤC”. Phản phục là qui luật xác định: mọi hiện tượng trên đại vũ trụ đều ẩn tàng trong nó một mầm mống chống lại chính hiện tượng đó.
Trong thái dương có thiếu âm và trong thái âm có thiếu dương. Thiếu âm, thiếu dương là các mầm mống phản phục của thái dương và thái âm. Từ rất xa xưa, ca dao Việt Nam đa khám phá ra hiện tượng phản phục:

                                      “Cười người chớ có cười lâu,
Cười người hôm trước, hôm sau người cười”
(Ca dao Việt Nam)

“Người cười” là mầm phản phục của hịên tượng “cười người”.  Câu hỏi đặt ra:Làm thế nào để con người có thể xác định được mối quan hệ tất yếu giữa lực phản phục và những chuyển mình của lịch sử? Chúng ta hãy đi tìm giải đáp cho câu hỏi vừa nêu bằng cách khảo sát bản chất chính trị của biến cố 30/4/1975 và các mầm mống phản phục của nó.
Như chúng ta đã biết, biến cố 30/4/1975 hiển nhiên là một hồ sơ tràn ngập tội ác. Nổi bật là những tội ác  sau đây:

          -Lợi dụng tình hình chính trị tại Hoa Kỳ gặp khó khăn, CSViệt Nam phản bội hiệp ước Ba Lê 1973, mang quân xâm chiếm toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa.
-CSViệt Nam trả thù quân, dân VNCH bằng cách tống giam hàng trăm ngàn người trong những trại tù khổ sai dưới tên gọi “học tập cải tạo”. Trong toàn bộ lịch sử của loài người, đây là một cuộc tắm máu độc ác nhất, âm thầm nhất, nham hiểm nhất .
-CSViệt Nam cướp đoạt tài sản, nhà cửa của người dân đàng sau tấm bình phong “đánh tư sản mại bản”.
-CSViệt Nam đẩy hàng trăm ngàn người dân Việt Nam xuống đáy biển qua chương trình vượt biên “bán chính thức”. Những nạn nhân của chương trình này phải nộp vàng cho CSViệt Nam để được CS tống xuất ra biển trên những chiếc ghe thiếu hẳn những phương tiện an toàn tối thiểu.
- Hàng triệu người Việt Nam khác do không chịu nổi chế độ hà khắc của CS, đã âm thầm băng rừng, vượt biển đi tìm tự do. Khoảng 40% số người này đã phải trả giá cho hai chữ “tự do” bằng chính sinh mệnh của họ.
-CSViệt Nam xem người dân như những kẻ nô lệ của đảng CS.  Ðảng đã và đang rộn rịp bán nô lệ cho bất kỳ quốc gia nào cần nô lệ. Nô lệ của CSVN được gọi dưới mỹ danh “những người tham gia chương trình xuất khẩu lao động” hoặc “những người thành hôn với người nước ngoài”, đặc biệt là “nước Ðài Loan”.
-Kinh tế thị trường với tất cả kỹ thuật kinh tế và pháp lý tinh vi của nó chắc chắn sẽ đẩy xí nghiệp quốc doanh và đảng CSVN rơi vào tử huyệt. Vì vậy CSVN chỉ giả vờ khoác áo kinh tế thị trường  đủ để lấy lòng giới kinh tế tài chính quốc tế. Trong thực tế, tại Việt Nam, ngày nay đảng CS và tay chân vẫn nắm chặt mọi ưu quyền kinh tế, vẫn cứng rắn bảo vệ guồng máy cầm quyền cực kỳ tham ô, cực kỳ phản văn hóa. Ðây là lý do giải thích tại sao Việt Nam bị các quốc gia lân bang bỏ rơi rất xa trên con đường tiến bộ. Ðây còn là tội ác kinh tế, văn hóa mà CSViệt Nam đã gây ra trên đất nước Việt Nam.
Tất cả những tội ác kể trên đã tạo ra trong tâm khảm của mỗi người dân Việt Nam niềm phẫn uất và ý chí phản kháng hướng về đảng CSViệt Nam. Ðó là cội nguồn của lực phản phục tiềm ẩn bên trong mối quan hệ giữa  người dân và nhà cầm quyền CSViệt Nam.  Chừng nào lực phản phục kia bừng nở thành HOA TỰ DO DÂN CHỦ? Câu trả lời xin được giải bày thông qua ba tình huống sau đây
 
          I.- BANG GIAO VIỆT- HOA.

                                    
      (Nông đức Mạnh Tổng bí thư đảng CSVN hèn hạ cúi đầu)

Việt ở đây là Việt Cộng. Hoa ở đây là Trung Cộng. Ðối với Việt Cộng, quyền thống trị của đảng CSVN là mục tiêu tối thượng. Nhóm chữ “quyền lợi dân tộc” chỉ được CSViệt Nam xử dụng như một khẩu hiệu tuyên truyền trống rỗng và nhàm chán. Ðầu thập niên 1990, sau khi Liên Xô và hệ thống CS thế giới tan vỡ, với ý đồ bám chặt quyền thống trị xã hội Việt Nam, nhóm lãnh đạọ CSVN đã đề nghị Trung Cộng đứng ra làm lãnh tu tối cao của các quốc gia CS còn sống sót , bao gồm: Trung quốc, Việt Nam, Cuba, Bắc Hàn. Trung Cộng lạnh lùng giữ im lặng trước đề nghị nồng nhiệt của CSVN. Những năm kế tiếp, vẫn với ý muốn chấp nhận quì gối trước Trung Cộng để được yên thân ngồi trên ngai vàng Việt Nam, CSVN đã liên tục phục vụ “Thiên triều” bằng các hành động sau đây:

-1999 VC ký thỏa ước nhượng một phần lãnh thổ Việt Nam cho Trung Cộng.
- 2000 VC ký thỏa ước nhượng một phần lãnh hải cho Trung Cộng.
-Ngay sau vụ  nhóm Bin Laden tấn công vào Trung Tâm Thương Mại Quốc Tế Nữu Ước và Ngũ Giác Ðài tại Hoa Thịnh Ðốn ngày 11/09/2001, VC đã cùng Trung Cộng tổ chức biểu tình gọi là “liên hoan ăn mừng chiến thắng”.
-Ngày 12 tháng 9/ 2004, VC ban hành pháp lệnh cho phép người Trung quốc với tư cách du khách (kể cả nhân viên tình báo giả dạng du khách) được quyền tự do di chuyển đến bất cứ nơi nào trên lãnh thổ Việt Nam.
-Ngoài ra, tuân lệnh Trung quốc, VC xây dựng rất nhiều cầu cống (đặc biệt là 11 cây cầu băng qua sông Hồng), phi trường, xa lộ Trường Sơn... Tất cả những phương tiện giao thông vừa kể nhằm giúp cho quân đội Trung quốc dễ dàng tràn về phương Nam Việt Nam trong trường hợp cần thiết.

Trên đây chỉ là một số sự việc trong muôn ngàn sự việc khác cho thấy VC đã phục vụ Trung Cộng bằng tất cả thái độ mẫn cán. Thay vì ban thưởng cho VC, Trung quốc laị lầm lì, công khai và triền miên đánh phá Việt Nam:

-Từ nhiều năm qua, Trung quốc không ngừng đẩy hàng lậu ồ ạt đè bẹp thị trường Việt Nam, làm cho kinh tế Việt Nam vô phương phát triển.
- Hải quân Trung quốc thường xuyên bắn giết ngư phủ Việt Nam nhằm độc chiếm vịnh Bắc Bộ.
-Trung quốc cho người xâm nhập Việt Nam để thu mua móng chân trâu, đuôi trâu với thâm ý giết chết nông nghiệp Việt Nam.
-Một số sông ngòi quan trọng của Việt Nam (đặc biệt là sông Cửu Long) có thượng nguồn từ Trung quốc. Lợi dụng vị thế địa hình vừa kể, Trung quốc không một chút ngần ngại phạm tội ác gây ô nhiễm trầm trọng môi trường sinh sống của người Việt.

Nói chung, Trung quốc không từ bỏ bất kỳ âm mưu hiểm ác nào có tác dụng đẩy đất nước và con người Việt Nam rơi vào hố diệt vong. Sự thể này cho chúng ta thấy: Trung quốc quyết tâm tạo mọi loại sức ép để biến VN thực sự thành một tỉnh của Trung quốc. Sống bên dưới các loại sức ép kia, CSViệt Nam thừa biết hai điều:

-Một là Trung quốc mãi mãi ghi nhớ Việt cộng là một tên tôi tớ phản bội. Phản bội Tàu để chạy theo Nga. Chiến tranh Hoa Việt tháng 2/1979 là vết nhơ không thể tẩy xóa được trong lịch sử bang giao VC và TC.
-Hai là, để trả hận thù cũ, một khi Việt Nam nằm gọn trong vòng tay đô hộ của Bắc xâm, Trung Cộng sẽ không dành đất sống cho VC. Ðó là hai lý do giải thích tại sao ngày nay CSViệt Nam lại phải nỗ lực tìm đường từ giã Bắc Kinh. Sau khi chia tay với Bắc Kinh, CSViệt Nam sẽ đi về đâu? Câu trả lời nằm trên mối bang giao Mỹ-Hoa.
II.- BANG GIAO MỸ- HOA.

Ðầu thập niên 1970 do nhu cầu tách rời Trung quốc ra khỏi Liên Xô, Hoa Kỳ đã tích cực giúp Trung quốc phát triển năng lực quân sự lẫn kinh tế. Ðầu thập niên 1990, Liên Xô và hệ thống CS thế giới tan rã. Bang giao Mỹ Hoa trở nên ngày một xấu đi, điển hình là các sự việc sau đây:

- Tháng 12 năm 1998, Trung quốc ký một hiệp ước hợp tác  quân sự với Taliban.Trong đó có điều khoản: Taliban cam kết chuyển giao cho Trung quốc những đầu đạn hỏa tiễn do Hoa Kỳ bắn vào các căn cứ huấn luyện của Hồi Giáo cựu đoan. Những đầu đạn này vì lý do ky thuật đã không phát nổ. Trung Quốc cần những đầu đạn kia để đánh cắp bí mật quân sự của Mỹ.
- Ngày 08/03/1999 Hoa Kỳ chính thức phản đối Trung quốc về việc Trung quốc đã gài địêp viên Wen Lee Ho vào làm việc tại căn cứ nguyên tử Los Alamos của Hoa Kỳ.
- Trước biến cố ngày 11 tháng 9 năm 2001 không bao lâu, Trung quốc ra lệnh cho cơ quan tuyên huấn của quân đội Trung quốc dịch tác phẩm “Chiến tranh không hạn chế” từ tiếng Hoa ra tiếng  Ả Rập. Bản dịch này nhằm  giúp Bin Laden huấn luyện quân khủng bố một cách tinh vi và hữu hiệu hơn. Tác giả của tác phẩm kia là Kiều Vương và Vương Tương Toại, họ là quân nhân của quân đội Trung quốc.
- Do phát triển kinh tế bừa bãi, thiếu tính toán, guồng máy kinh tế khổng lồ của Trung quốc ngày nay đang phải đối đầu với những khó khăn cực kỳ to lớn: thiếu nước, thiếu nhiên liệu, thiếu điện, lực lượng lao động già nua do chính sách mỗi gia đình một con được áp dụng từ 1979... Nhằm đương đầu với khối khó khăn vừa kể, Trung quốc một mặt xâm lấn các quốc gia lân bang, mặt khác sẵn sàng thực hiện bất kỳ hành động tàn ác nào, miễn là hành động đó đáp ứng được hy vọng cứu nguy nền kinh tế Trung Quốc. Ðó làl ý do giải thích tại sao Trung quốc bảo trợ và buôn bán vũ khí sinh hóa, nguyên tử với Bắc hàn, Iran cùng các quốc gia và tổ chức khủng bố chống Mỹ trên đất Mỹ và trên toàn thế giới. Các hành động vừa nêu chẳng những giúp Trung quốc thâu lợi nhuận mà còn tạo điều kiện để Trung quốc quấy nhiễu Hoa Kỳ. Quấy nhiễu như vậy gây  tác dụng cầm chân Hoa Kỳ ngõ hầu Trung quốc có thể một mình một ngựa tiến chiếm ngôi vị bá chủ hoàn cầu.

Ðối đầu với một Trung quốc ngang ngược và nham hiểm, Hoa Kỳ không thể không nghĩ đến một chính sách ngoại giao riêng dành cho Trung Quốc. Sự kiện Hoa Kỳ đón tiếp thủ tướng CSViệt Nam Phan Văn Khải là chỉ dấu  rõ ràng nhất cho thấy những toan tính mới của Mỹ hướng về Hoa .
III.- BANG GIAO MỸ - VIET.

                                      
            Sau một thời gian đương đầu với khủng bố, Hoa Kỳ nhận biết rằng các chế độ độc tài áp bức chính là cha đẻ của nạn khủng bố quốc tế, và rằng chỉ có chế độ dân chủ chân chính mới có khả năng giải trừ được tận gốc rễ các tệ nạn: độc tài, tham ô, buôn lậu, khủng bố...Vì vậy, trong bài diễn văn nhậm chức nhiệm kỳ II, Tổng Thống George W Bush khẳng định: “Sự tồn tại của nền tự do tại Hoa Kỳ ngày càng lệ thuộc vào kết quả tự do tại các quốc gia khác. Hy vọng tốt nhất cho nền hòa bình trong thế giới của chúng ta là sự phát triển tự do trên toàn cầu”.
Nhằm khẳng định quyết tâm dân chủ hóa toàn cầu, Tổng Thống George W Bush đưa ra hai thông điệp:

-Thứ nhất: Nói với các nhà cầm quyền độc tài áp bức: “ Những lãnh tụ của các chính quyền có thói quen cai trị lâu năm cần biết rằng: để phục vụ nhân dân, quý vị phải học đặt niềm tin nơi nhân dân của quý vị. Hãy bắt đầu con đường tiến bộ và công bằng thì Hoa Kỳ sẽ đi bên cạnh quý vị.”
-Thứ hai: nói với những người đấu tranh cho tự do, dân chủ: “ Những người cách mạng dân chủ gặp phải cảnh bắt bớ, đàn áp, tù đày hoặc lưu vong, xin quý bạn có thể hiểu rằng: Hoa Kỳ nhìn thấy quý bạn là ai: là những lãnh tụ tương lai trên quốc gia tự do của quý bạn.”

Mục tiêu quan trọng hàng đầu của chương trình dân chủ hóa toàn cầu do Hoa Kỳ phát động chính là Trung Quốc. Muốn vậy, Hiệp Chủng Quốc phải ưu tiên vô hiệu hóa những mưu toan quấy phá an ninh quốc tế của Trung quốc. Từ kế hoạch vô hiệu hóa vừa kể, Hoa Kỳ chọn CSViệt Nam như một đồng minh thân cận, kiểu Pakistan. Nếu Pakistan có chung biên giới với Iran và Afghanistan thì Việt Nam có chung biên giới với Trung quốc. Ðó là lý do giải thích tại sao ngày 3 tháng 2 năm 2005, từ San Francisco trong một bài thuyết trình in sẵn, ông Michael W Marine, đương kim Ðại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, long trọng xác nhận: “ Hoa Kỳ tôn trọng chủ quyền, sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và kiên quyết chống lại bất cứ nỗ lực nào nhằm chia rẽ hay gây rối biên giới của Việt Nam. Trái lại, chúng ta có lợi ích chung trong việc bảo đảm an ninh khu vực và trên thế giới. Mối quan hệ hợp t ác trên lãnh vực quốc phòng hiện nay của chúng ta là những bước đi đầu tiên nhằm tìm ra một phương cách phù hợp để cả hai nước có thể cùng nhau đối phó với những thách thức an ninh trong thế kỷ 21.”

Ðể củng cố lòng tin tưởng của người Mỹ và người Việt đối với chính sách ngoại giao mới trong bang giao Việt Mỹ, Ðại Sứ Michael W Marine nhấn mạnh: “ Mặc dầu cả hai quốc gia chúng ta đã có lịch sử không thuận hợp, song một sự kiện rõ ràng là cả Việt Nam lẫn Hoa Kỳ hiện không có dị biệt nào về mặt chiến lược.”
Không còn nghi ngờ gì nữa, CSViệt Nam cần chạy trốn hiểm họa Bắc thuộc lần thứ tư. Hoa Kỳ cần một đồng minh cản bước tiến của Trung quốc. Hai cái “cần” vừa kể cộng lại với nhau tạo thành bang giao Việt Mỹ 2005. Sự có mặt của Thủ Tướng Phan Văn Khải tại Hoa Kỳ vào tháng 6 năm 2005 là dấu hiệu mở đầu công cuộc đổi chủ của CSViệt Nam. Từ chủ Tầu, VC chạy qua chủ Mỹ. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, lợi dụng bàn cờ chính trị quốc tế, VC tự nhận mình là kẻ chiến thắng và gọi Mỹ là kẻ chiến bại. Ba mươi năm sau: 30/4/2005 cũng chính bàn cờ chính trị quốc tế đã buộc CSViệt Nam phải quy phục Hoa Kỳ. Quyết định quy hàng của CSViệt Nam đã đẩy chế độ độc tài này đối diện với hai giai đoạn lịch sử:

- Giai đoạn I: còn gọi là giai đoạn trăng mật giữa Mỹ và VC. Tại gia đoạn này có thể Hoa Ky đáp ứng một số yêu sách của CSViệt Nam về kinh tế cũng như về nhu cầu tăng cường sức mạnh quân sự.
-Giai đoạn II: đây là giai đoạn CSViệt Nam phải đồng loạt nhận lãnh hai loại áp lực:

                + Áp lực từ phía chính phủ Mỹ: muốn thi hành hữu hiệu vai trò lá chắn đối với Trung quốc, CSViệt Nam phải là một nhà cầm quỳên không tham ô, luật pháp phải tinh vi và khoa học. Nói ngắn và gọn, CSViệt Nam phải dân chủ hóa theo đúng chủ trương đã được xác định trong bài diễn văn nhậm chức tổng thống nhiệm kỳ II của ông George W Bush.
                + Áp lực từ phía nhân dân Hoa Ky ø(đặc biệt là người Mỹ gốc Việt): tại Hoa Kỳ dầu là Dân Chủ hay Cộng Hòa, không thể có nhà cầm quyền nào dám coi thường lá phiếu của người dân bằng cách dùng đồng tiền thuế của người dân để nuôi dưỡng dài hạn một chế độ độc tài và tham ô kiểu CSViệt Nam. Vì vậy bang giao Việt Mỹ hiểu theo nghĩa Việt Nam là Pakistan tại Ðông Nam Á, chắc chắn sẽ bị cử tri Hoa Kỳ gây áp lực nặng nề, nhằm buộc Mỹ phải dân chủ hóa Việt Nam, với tốc độ làm chóng mặt chế độ độc tài. Sỡ dĩ vị trí của người Mỹ gốc Việt trên địa bàn áp lực chính trị tại Mỹ được bài viết này nhấn mạnh là vì đó là một thực tế chính tri mà Hà Nội không thể chối bỏ. Ngày 17/04/2005 trên báo Thanh Niên của CSViệt Nam chính Lê văn Bàng thứ trưởng bộ ngoại giao của Ha Nội đã phải xác nhận:” Vai trò của cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ trong mối quan hệ giữa Hoa Thịnh Ðốn và Hà Nội là rất quan trọng.”

Dưới cả hai loại áp lực kể trên, CSViệt Nam không thể không quy hàng thể chế tự do dân chủ. Ðó là chân ý nghĩa của bài viết: 30 năm sau, kẻ chiến thắng xin quy hàng. Ðó còn là sức mạnh hiển nhiên của lực phản phục được diễn tả bằng những chuyển mình của lịch sử.

                                                                       ÐỖ THÁI NHIÊN
     Tặng và lưu ý cho vợ chồng tên Việt gian Nguyễn phương Hùng
              
 
Nguyễn Phương Hùng cúi đầu, khom lưng     Hai tên Mỹ gian phản quốc Julius và                  
hèn hạ trước tên chủ Nguyễn Thanh Sơn,       Ethel Rosenberg, bị tử hình vào ngày                                                                                
 thứ trưởng ngoại giao việt cộng                     19 tháng 6-1953 vì tội làm gián điệp
                                                                           ăn cắp bí mật vũ khí bom nguyên tử,                
                                                                          bán cho Liên sô