Tuesday, May 22, 2012

Lý-Thường-Kiệt và khẩu Bazoka.
                                     
                                         Tống phước Hiến
                  
                  Mùa đông năm 1976, trời lạnh nhiều hơn mấy năm trước. Chính giữa nhà, theo lối dọc của hai cửa ra vào là đường đi. Tù nằm hai bên, chen chúc, chui rúc chật hẹp. Vì thế, nên phần đông họ bắt cặp, người nằm dưới đất thì người bên cạnh mắc võng. Thời gian nầy tù còn nhận được hằng tháng một số đồ dùng  như đường, thuốc lào, kem đánh răng do trại cung cấp và trừ vào khoảng tiền trợ cấp hằng tháng và tù còn thong thả, chưa phải bị bắt buộc lao động.
            Vào một đêm cuối tháng 10 âm lịch. Khoảng gần nửa đêm, một người tù sau khi: “Báo cáo anh giải phóng quân, tôi xin phép vệ sinh về” (1) Anh ta  vào đến giữa lối đi và hỏi – tuy không lớn, nhưng đủ cho những người chung phòng nghe :
- Khẩu Bazoca  đâu ?
Có tiếng trả lời:
- Sau ba lô tao, lấy đâu bỏ lại đấy. Mỗi lần cần, kiếm hụt hơi.
Sau một chuổi âm thanh như tiếng nước sôi reo dữ dội. Hắn rón rén trèo lên võng. Rồi lại có tiếng ngâm thơ điệu “sa mạc”với sự phụ họa của tiếng võng đu đưa:
                        Nam Quốc Sơn Hà Nam Ðế cư
                        Tuyệt nhiên định phận tại Thiên thư.
                        Như hà nghịch lổ...
            Tiếng ngâm bỗng tắt ngay sau tiếng thét phía ngoài, bên hông nhà:
- Câm mồm ngay, tên phản-động.
Phía bên trong nín thinh im lặng, bên ngoài lại có tiếng xì xầm nho nhỏ. Rồi tiếng bước chân dồn dập hấp tấp. Dường như đã bố trí người  vào những vị trí cần thiết xong. Bên ngoài dõng dạc vọng vào :
- Nhà trưởng đâu, tôi hỏi?
          Từ đầu cửa ra vào, anh nhà trưởng trả lời:
           -Báo cáo anh giải phóng quân, có tôi.
- Vừa rồi, anh có nghe gì không?
            - Báo cáo anh, dạ có. Một trại viên ngâm thơ.
            - Ngâm thơ à! ngâm thơ bằng tiếng gì mà không ai hiểu?
            - Dạ, anh ấy ngâm thơ bằng chữ Hán.
           - Thơ của ai, tác giả là ai ?
           - Dạ của Lý Thường Kiệt.
            - Lý Thường kiệt là anh nào mà làm thơ bằng tiếng nước ngoài, phản động thế?
            Bên ngoài lại có tiếng nho nhỏ rì rào bàn tán. Rồi tiếng những bước chân xa dần.
Bên trong, dường như ước định tình hình có vẻ bình an nên từ phía đầu hồi, kề gần chổ nằm của nhà trưởng có tiếng rè rè ngái ngũ:
            - Con xin mấy cha, đừng thơ với thẩn nữa, bò xanh (2) nó dốt nên hay đa nghi. May mà nó bỏ qua, không thì lại xét tới xét lui phiên hà lắm. Mấy cha nghĩ, trời lạnh thế nầy mà ra tập họp ngoài sân cho chúng xét thì còn gì khổ bằng !
            Cách đó mấy cái mùng, tiếng rít thuốc lào vội vã rít lên, sau cơn ho, có giọng người cằn nhằn :
            - Miệng ăn mắm, ăn muối trù ẻo bậy bạ đi.
            Chừng độ nửa giờ sau, bên trong nghe phía bên ngoài nhiều tiếng chân chạy. Tù đoán,  phía ngoài người đông lắm. Nghe cả tiếng nạp đạn lên nòng cơ bẫm, tù  biết sắp phải làm gì rồi.
            - Nhà trưởng đâu, cho anh em mang tất cả đồ đạt, vật dụng cá nhân ra sân tập họp hành quân. Tuyệt đối không để lại vật gì và thật khẩn trương (3).
Ðợi “tù viên“ tập họp ngay ngắn xong, nhà trưởng báo cáo quản giáo. Quản giáo báo cáo lên người cao cấp hơn. Sau đó, tù được y cho ngồi xuống. Vây quanh tù khoảng mấy mươi tên bộ đội súng cầm tay, mặt hầm hầm hung tợn trông rất “khẩn trương!”. Xa xa, thấp thoáng một số bộ đội khác ẩn hiện trong tư thế sẳn sàng cận chiến. Tên cao cấp trong bọn (tù đoán thế) nghiêm chỉnh nói bằng giọng Bắc rất nặng (4) mà người ta thường gọi là Bắc 75 để phân biệt với Bắc 54 hay còn gọi là Bắc 9 nút rất dễ thương:
            - Giới thiệu với các anh, tôi – Thượng úy Tuyên, Chính trị viên Tiểu đoàn, đơn vị thay mặt đảng và chính phủ trực tiếp quản lý giáo dục các anh. Trước hết, lãnh đạo gởi lời thăm hỏi đến các anh, sau động viên các anh mấy vấn đề như sau:
            Ðất nước ta, rừng vàng bể bạc. Nhân dân ta anh hùng đã đánh thắng hai kẻ thù là xâm lược Pháp và đế quốc Mỹ, tên hung nô thời đại. Rồi đây, dưới sự lãnh đạo tài ba của đảng và với chủ nghĩa Mác, Lê-nin vô địch bách chiến bách thắng ta sẽ dập tắt âm mưu bành trướng bá quyền Trung quốc. Cuộc chiến tranh vừa qua, khẳng định rằng: chúng ta – người Việt-Nam gồm chúng tôi và các anh đã thắng, đế quốc Mỹ đã thua. Phát xuất từ đại nghĩa Dân tộc, đảng khoan hồng và cho các anh vào đây học tập cải tạo để trở thành người lương thiện trong xã hội mới. Việc tập trung cải tạo các anh là một nhiệm vụ vô cùng nặng nề mà nhân dân và chính thân nhân gia đình các anh yêu cầu đảng phải vinh dự nhận trách nhiệm nầy. Ba giòng thác cách mạng sẽ cuốn trôi mọi sức cản, mọi thế lực phản động. Cách mạng sẽ nghiền nát. Bạo lực cách mạng cương quyết không khoan hồng mọi sự chống đối. Cũng cần báo cáo với các anh, các anh đã nhận xét, đánh giá sai lầm chúng tôi. Các anh tưởng rằng các anh nói tiếng nước ngoài như tiếng Hán học chẳng hạn, là chúng tôi không hiểu. Các anh lầm; cán bộ cụ Hồ, cán bộ cách mạng hiểu hầu hết các tíếng nước ngoài trên thế giới như tiếng Liên sô, Trung quốc, Mỹ, Anh, Pháp vân vân. Không những hiểu mà còn hiểu thông suốt nữa kìa. Nhưng chúng tôi vì muốn giữ gìn sự trong sáng tiếng việt như Hồ chủ tịch vĩ đại dã dạy rằng giữ sự đoàn kết như giữ gìn con ngươi nên chúng tôi không bao giờ nói tiếng nước ngoài. Báo cáo như thế để các anh đả thông quan điểm mà không phạm khuyết điểm và bị phát hiện tư tưởng quan điểm. Cũng báo cáo các anh, tài nguyên của ta to lớn lắm . Ðánh thắng giặc Mỹ ta sẽ xây dựng bằng mười ngày xưa. Ðồng chí Tố Hữu đã nói thế mà!.
            Nghe tên Thượng úy chính trị viên nầy nói, đám tù nhân càng lúc càng mịt mờ, không hiểu y muốn nói gì. Cơn buồn ngủ  đấu không lại với giá lạnh. Những đợt gió heo may thổi lướt, sương rơi nhiều hơn, có người cởi áo phủ lên đầu che sương, vài tiếng ngáp vặt. Một số lớn tù lim dim cố tranh thủ kiếm giấc ngủ. Tiếng tên thượng úy đều đều, vài cái đầu của tù gục gặt. Tiếng hét từ phía người cầm súng ré lên, lại vài tên lên cò súng đe dọa. Dường như không còn thấy “phấn khởi, hồ hởi”(5) thuyết trình nữa, mấy tên chỉ huy hội ý. Rồi tên quản giáo tiếp tục:
        - Cách mạng vừa mới nhận được báo cáo từ cơ sở cho hay trong số các anh có người vi phạm, không nghiêm chỉnh chấp hành nội quy. Ðó là, có anh còn cất giữ một số vũ khí. Nhân dân là tai mắt của cách mạng và cách mạng đã hiểu biết hết thảy tư tưởng cũng như hành động và mọi âm mưu hoạt động của các anh. Tuy nhiên, cách mạng đánh kẻ chạy đi, chớ không đánh người chạy lại. Do đó, để tạo điều kiện cho các anh  có dịp bày tỏ sự ăn năn, xứng đáng được đảng khoan hồng giáo dục, tôi chưa tiện nêu danh tánh của ai, nhưng rơi vào ai thì người đó tự biết. Tôi  cho các anh 5 phút để quyết định can đảm nhận sai phạm. Những anh trong sạch thì cũng có điều kiện tố giác kẻ xấu, thực hiện khẩu hiệu mà các anh tự đề ra là khai thật, khai hết và khai sạch với cách mạng về chính mình và những người khác mà mình biết. Ðó chính là thái độ giác ngộ cách mạng, là con đường ngắn nhất để tiến bộ để về với xã hội, với gia đình xum họp với vợ con.
             Ngưng một lát để chờ phản ứng. Nhưng phía tù vẫn không thay đổi. Tên quản giáo tiếp:
            - Những ai phát giác, tố cáo đồng bọn, cách mạng đảm bảo an toàn và trại báo cáo lên trên, đề nghị cho được ân xá, được hưởng sự khoan hồng của đảng. Báo cáo với các anh là cách mạng đã có cơ sở nhé, này nhé – cách mạng chỉ tiết lộ một điễm nhỏ để các anh hiểu là  chúng tôi nắm rất rõ, tình hình nó như thế nầy: Anh nào cất khẩu bazoca?
            Lại có tiếng cười nho nhỏ, xen với tiếng thở dài của tù nhân, nhưng tất cả vẫn không có gì “tiến bộ”. Tù cảm nhận được vấn đề, nên “an tâm” suy nghĩ  theo ý riêng mỗi người. Một tên bộ đội cầm súng ghé tai nói nhỏ, viên thượng úy gật gật, khuôn mặt và ánh mắt đăm chiêu nhìn về phía tù, cất giọng:
            -Ðể bổ túc ý kiến của đồng chí quản giáo. Ban lãnh đạo tiểu đoàn thấy có bổn phận phải báo cáo thêm rằng, nếu không có anh nào tự giác thì tôi bắt buộc phải công bố tên phản động và sau đó là quá trể để nhận được sự khoan hồng của cách mạng.
            Hắn ngừng, đảo mắt tìm xem từ phía tù có “ hiện tượng “ gì không, hắn tiếp:
            - Và dĩ nhiên toàn thể các trại viên đều bị liên hệ, phải làm kiểm điểm về tội bao che, nếu không tìm ra tên phản động.
            Gió vẫn chuyển theo hơi lạnh, không gian vẫn tối tăm. Phía chân trời mây vẫn mịt mùng  và chuyển động, những lằn chớp, những tiếng sét xé rách im lặng, màn đêm lóe sáng. Mưa bụi bay lất phất , hạt mưa càng lúc càng nặng hơn. Những thân tù gầy xơ xác, héo úa bây giờ thêm xác xơ héo hắc tàn tạ. Tù xích lại gần nhau hơn. Thoạt đầu có vẻ như chuyện đùa. Nhưng bây giờ chuyển sang quan trọng và thảm hại cho tù lẫn cả cai tù. Bọn bộ đội phủ lên trên mình miếng ny lon che mưa từ một tên khác mang tới. Không kiềm chế cơn giận được nữa, tên Thượng úy hét thật to :
          - Anh nào tên là Lý Thường Kiệt bước ra?
          Mưa nhiều và nặng hạt hơn, sấm chớp vẫn dữ dội và tù vẫn không “chuyển biến tư tưởng”. Tên quản giáo nổi nóng mạt sát:
            - Báo cáo với các anh, đảng đã nắm rõ, rồi đây nhân dân sẽ cung cấp thêm. Nhưng bây giờ, chính tên Lý-Thường-Kiệt phải biết liêm sĩ, nhìn nhận tội trạng. Bất kỳ học viên nào biết tên phản động Lý Thường Kiệt thì phải tố cáo, Nếu sau nầy kinh qua kết quả điều tra mà cách mạng phát hiện ra “sự cố “, có sự liên hệ giữa tên Lý Thường Kiệt với bất kỳ ai thì người đó nhận lãnh hậu quả y như  tên Lý Thường Kiệt vậy.
            Tên Thượng úy lại kiên nhẫn trổ tài “chính trị” ra “thuyết khách”, Anh Lý Thường Kiệt ạ, chúng tôi đã biết, nhân dân đã phát hiện ra được anh rồi! Vả lại bài thơ tiếng Hán ấy dù có đôi ba ý lăng nhăng linh tinh, nhưng đâu có gì quan trọng. Hơn ai hết, các anh biết tội ác tày trời, tội ác nếu nói là trời không dung, đất không tha cũng không ngoa mà cách mạng còn cho học tập, khoan hồng, huống chi vài “hiện tượng hoang mang giao động nhỏ”. Báo cáo để anh an tâm, cách mạng không xem đó là  bản chất mà đánh giá nó chỉ là hiện tượng thôi . Chỉ cần anh tự giác kiểm điểm là xong. Anh Lý Thường Kiệt nghĩ xem vì anh mà chúng tôi, - ừ, mà thôi, đừng kể chúng tôi là đang đêm khuya lạnh, mưa gió thế nầy - là vì chúng tôi là giải phóng quân. Nhưng các học viên khác vì anh, vì sự hèn nhát của anh mà  phải ướt, phải lạnh như thế nầy. Lương tâm anh đâu? Nhưng anh làm sao qua mặt được đảng và nhân dân. Suy nghĩ và tự thú thôi anh Lý thường Kiệt ạ!
            Trời gần sáng, sương và gió lạnh hơn, nhưng mưa dần dần ngưng, rồi tạnh. Tù run cầm cập, ba lô, túi xách ướt đẫm. Tù lấy thân che của, choàng ôm ba lô, túi xách để hạn chế bớt nước  thấm vào áo quần bên trong. Lác đác vài tên bộ đội bỏ đi. Chần chừ, chờ đợi...cuối cùng đến phiên tên Thượng úy ra đi.
 Nắng ban mai rọi chiếu những tia đầu ngày, mang theo hơi ấm, ánh nắng. Ánh sáng màu vàng tươi chan chứa niềm vui, tù tìm lại được sức sống, và dù đoán biết sự việc chưa kết thúc, nhưng cũng không khốn khổ như đêm qua.
            Ðến gần trưa, các đội đến nhà bếp nhận cơm. Anh em tù nhìn nhau dọ hỏi, vừa cảm thông vừa xót thương.
            Sau buổi “giao ban”(6) giữa các  quản giáo, và đội trưởng, đặc biệt hôm nay có cả cán bộ cấp Trung đoàn xuống. Tù vẫn trong tư thế chịu đựng sự trừng phạt. Gần đứng bóng, nắng chói chan, áo quần đẫm nước bốc hơi khô dần.
         Tên Thượng úy vội vàng tách ra khỏi phái đoàn có vẻ như tiến về phía tù. Y chạy nhanh, ra lệnh cho tù đứng dậy. Tù theo lịnh nghiêm chỉnh đón chào phái đoàn “ ban lãnh đạo trung đoàn”. Thủ trưởng trung-đoàn dáng nhỏ thó, mặt ngắn và choắt, hơi mập, môi dầy và hơi thâm, răng vổ, có sọc đen và trán vồ, y đeo dưới nách lủng lẳng cái xách vải màu cứt ngựa. Bằng giọng kiêu căng, đứng trước đám tù, hắn nói
- Cách mạng không dài dòng, cách mạng là bạo lực. Tôi biết các anh cười thầm khinh chúng tôi không thuộc lịch sử. Chúng tôi biết Lý Thường Kiệt, người đời nhà Lý. Nhưng một tên phản động gian manh, mượn mấy chữ trong bài thơ thuộc bản tuyên ngôn độc lập của ta, rồi ghép tiếng hán, tiếng tàu hầu tỏ lộ thái độ bái sợ tên đế quốc phương bắc, tên bá quyền nầy đang manh nha xâm lăng ta. Gian manh hơn, hắn lấy bí danh Lý Thường kiệt để ngăn trở việc điều tra của cách mạng, của nhân dân. Ðảng long trọng cảnh cáo tên có bí danh Lý Thường Kiệt và báo cho y biết, một ngày rất gần đây, nhân dân sẽ lôi hắn ra ánh sáng.
Tên thủ trưởng quay sang phía tên quản giáo và ra lịnh:
           - Thôi, đồng chí cho anh em giải tán về ăn cơm. Ðặc biệt hôm nay cho anh em thoải mái chơi bời nghỉ ngơi. Nội vụ đã chuyển đạt lên cấp trên và chuyên ngành nghiên cứu phương án điều tra. Nhân danh đảng, chính phủ và quân đội, tôi biểu dương tinh thần cảnh giác cao độ, tận tụy với công tác, chấp nhận mọi gian lao nguy hiễm, nhất là đối với đồng chí vệ binh. Ðồng chí chính-trị viên nhớ nhắc bộ phận văn phòng lập bằng tưởng lục cho đơn vị và cho cá nhân đồng chí phát hiện vụ việc. Bộ chỉ huy trung đoàn sẽ lên danh sách cho đồng chí ấy dự tranh cá nhân xuất sắc trong quý nầy. Thôi cho giải tán.
               Ngã lưng xuống nền đất, có người tù cố tìm giấc ngủ bù, có người tù tìm quên thân phận bằng những hơi thuốc lào, có người tù đi bẩy chuột, có người tù khuây khỏa nổi buồn bằng những ván cờ. Và đâu đó, có tiếng thở dài thật nhẹ, những đôi mắt trầm tư sâu lắng. Nỗi đau không chỉ riêng thân phận mình mà cả thân phận giống nòi, quê hương, Sự trầm tư, nổi niềm sâu lắng ấy chính là những cơn đau có chất chứa cả ân hận, cả mơ ước và cả ý chí quyết liệt. Vài vầng nhăn lên trán trông như những luống suy tư. Vài cái nhíu mày như trái tim đang rỉ máu và những nắm tay xiết lại thành những nắm đấm, những đường gân  xanh nổi lên trên những cánh tay khẳng khiu bởi niềm đau, nhức nhối không nguôi. Có người tù lau nhanh vài giọt lệ, rồi đôi mắt họ quắt sáng như những tia nắng của buổi sáng hôm nay.
                                   

                                                                                           Tống phước Hiến

 
1./ Khi mới vào tù, bọn bộ đội cộng sản bắt tù  phải gọi chúng là : anh giải phóng quân. Ban đêm muốn đi vệ sinh phải đứng báo cáo xin phép chúng: Báo cáo anh giãi phóng quân tôi...
2./ Bò xanh là bộ đội , bò vàng là công an.
3./ Khẩn trương là nhanh chóng. Cũng có nghĩa nguy hiểm.
4./ Giọng bắc vùng quê, nơi mà dân địa phương phát âm chữ l thành chữ n và ngược lại. Thí dụ lanh lợi thì phát âm là nanh nợi, hay non nước thành ra lon lước.
5./ Hồ hởi, phấn khởi là tiếng bọn cán bộ cộng sản diễn đạt trạng thái vui mừng, thích thú.
6./ Giao ban: Trong trại tù thì các cuộc họp giữa quản giáo với các đội trưởng. Ðây là dịp để tù đội trưởng, tù nhà trưởng báo cáo và nhận lịnh bọn cai tù.


Saturday, May 12, 2012

                                      Đêm Mơ Thấy Mẹ
                                 
                                                             Tống phước Hiến
     
Đêm hôm qua tôi nằm mơ thấy Mẹ
Vẫn mắt buồn, vẫn chiếc áo đơn sơ.
Vẫn tay gầy, vẫn má hóp thẩn thờ ,
Còn nguyên vẹn những gì nơi dáng Mẹ.

Mẹ không nói mắt dường như ngấn lệ
Giọt lệ sầu, Mẹ chớm buổi tang chồng.
Rồi xót xa, khóc con vào lao lý
Thương non sông, con mất súng tan hàng

Ánh mắt Mẹ, vẫn dạt dào mơ ước,
Niềm ước mơ thật giản dị bình thường:
-Đời ấm no, xóm làng thôi xơ xác.
 Súng oán thù thôi tàn sát quê hương.

Đôi mắt Mẹ, là vạn lời tha thiết
  tình yêu, như gió nước rì rào.
Là lịch sử kết liền bao thế hệ,
Là lời ru, là điệp khúc ca dao

Con tỉnh giấc, bóng đen còn u uất
Bóng mẹ hiền vẫn sừng sững chưa  nhòa
Nước mắt mẹ là tiếng hờn lịch sử
Giục đàn con tìm bước đến tương lai


                                                            TốngPhước Hiến

Wednesday, May 9, 2012



Sổ Tay
               Liên Thành càng hạch sách,
             Phật tử đến chùa Điều Ngự càng đông !

                                                                                    
                                                                                              Vũ Ánh

Mới đây, Liên Thành, một ông lính cựu trong quân lực VNCH và Cảnh Sát Quốc Gia có gởi cho Hòa Thượng Thích Viên Lý Viện chủ chùa Điều ngự Nam California, trong thư ông trình bày rất chi tiết về gốc gác Hoàng tộc của ông và sau đó ông đặt câu hỏi với Thầy Thích Viên Lý, mà tôi trích nguyên văn như sau:

“Thưa Thầy Viên Lý, với tư cách là một Phật Tử, với tư cách là một người lính VNCH và một Cảnh Sát Quốc Gia VNCH,  xin cho tôi được hỏi thầy một số câu hỏi dưới đây:

1) Trong những ngày cuối cùng 27, 28, 29 của tháng 4 năm 1975 thầy ở đâu? Thầy có  chứng kiến những cảnh đau thương cùng cực của con dân miền nam trong cơn đại hồng thủy đang chụp xuống cho dân chúng miền Nam hay không.

2) Thầy có chứng kiến cảnh di tản của đồng bào trên khắp mọi nẽo đường xuôi  Nam tìm cách lánh  nạn cộng sản, thầy có chứng kiến cảnh bi thương của những người lính VNCH, CSQG buột phải buông súng hay không? Bao nhiêu người đã chết dưới lòng biển lạnh, bao nhiêu người đã chết trong rừng xanh núi thẳm khi tìn đường vứt thoát khỏi cộng sản? Thưa thầy, con số lên cả hơn triệu người.

3) 27,28,29 tháng 4 năm 1975 là những ngày tang tóc điêu linh của cả dân tộc Việt Nam, và ngày 30 tháng 4 là ngày Quốc Hạn thầy biết không?

4) Vậy thì tại sao trong thư mời của văn Phòng II Viện Hóa Đạo thầy lại mời Phật Tử và quan khách tham dự Đại lễ Phật Đản được tổ chức long trong trong ba ngày 27,28,29  tháng 4 năm 2012. Trong khi đó lễ Phật Đản năm nay là ngày 5 tháng 5….”

Sau những câu hỏi của ông lính cựu Liên Thành ra ngay khuyến cáo Chùa Điều Ngự, xin trích nguyên văn:

“Thưa thầy Viên Lý,
Hiện nay dư luận trong cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại tất cả đều không thuận ý về việc thầy  tổ chức ngay đại lễ Phật Đản vào ngày 27, 28, 29 và có hai nguồn dư luận như sau:

1)     Hoặc là vì vô tình đã đưa đến hành động vô ý thức,  thầy tổ chức đại lễ Phật Đản  vào những ngày 27, 28, 29 tháng 4  là những ngày đau buồn nhất của dân tộc, những ngày mà miền Nam Việt Nam trong cơn hấp hối, những ngay miền Nam Việt Nam sắp rơi vào tay bọn cộng sản hung tàn.
2)     Hoặc đây là một hành động đã được bọn cộng sản Việt Nam sắp xếp trước và được thi hành bởi đám tay sai Việt gian tại hải ngoại nhằm xóa tan ngày Quốc Hận 30-4.

Thưa thầy Viên Lý,
Bản chất tôi vốn dĩ chưa bao giờ lùi bước trước bất kỳ một hăm đọa và áp lực nào và luôn đứng về lẽ phải, đứng với chiến tuyến những người Việt quốc gia chống lại  cộng sản Việt Nam hung tàn và những tên đê hèn Việt gian, vì vậy với đôi lời thô thiển mong được thầy trả lời cho những thắc mắc mà tôi vừa  nêu trên, không những cho cá nhân tôi mà còn rất nhiều người đang chờ đợi lắng nghe lời giải thích của thầy…”.

Trên đây là tất cả những gì được gọi là thắc mắc và khuyến cáo của ông Liên Thành. Ông còn bày tỏ rằng ông là một người không lùi bước trước bất kỳ một hăm dọa, áp lực nào, đứng về lẽ phải, đứng với chiến tuyến những người Việt quốc gia chống lại Cộng Sản hung tàn và những tên đê hèn Việt gian. Ông Liên Thành nói vậy thì cũng chỉ biết nghe như vậy thôi, chứ nếu ông có nói đến gốc gác Hoàng tộc của ông đến mấy đi nữa cũng đếch ăn thua đến chuyện ông lùi bước hay không lùi bước trước áp lực hay hăm dọa. Những người nào sinh sống ở Huế lâu đời họ đều biết ông là người như thế nào rồi. Đôi khi họ không muốn dây với…một con người như ông nên họ im lặng. Im lặng có thể là vàng và cũng có thể biểu lộ sự khinh bỉ.

Ông Liên Thành nói ông đứng với chiến tuyến những người Việt quốc gia chống Cộng Sản hung tàn. Ấy vậy mà trước ngày 30 tháng 4 sao ông lại bỏ hàng ngũ  trốn ra nước ngoài, tìm lấy an toàn cho cá nhân mình, lúc đất nước nghiêng ngả. Với những người như ông Liên Thành thì VNCH mất là một cái may cho ông, bởi vì nếu VNCH còn thì những người bỏ trốn trước địch quân tất phải bị trừng phạt theo quân luật, tội phản nghịch có thể lên tới chung thân khổ sai và hay bị đưa bị đi lao công đào binh đó ông Liên Thành! Như thế thì những người Việt quốc gia chống Cộng sản hung thứ thiệt ai cho ông đứng chung với họ?  Chùa Điều Ngự là một cơ sở tôn giáo nên theo như chỗ tôi biết thì họ đâu có hăm dọa hay áp lực ai đâu mà ông phải rào trước đón sau là ông không lùi bước. Đọc những câu hỏi của ông Liên Thành, tôi có cảm tưởng đây là câu thẩm vấn của một tên Công an Việt Nam trong những buổi lấy cung từ mà an hem cựu tù cải tạo chúng tôi thường phải trải qua. Tôi nói thế chắc ông cũng chẳng hiểu gì đâu bởi ông chưa hề đi tù ngày nào làm sao mà biết được. Trong lúc những người lính VNCH còn tả xung hữu đột mở đường máu thoát khỏi vòng vây Việt cộng thì ông bỏ đi. Điều này không quan trọng mà quan trọng là cái cách hỏi đầy xách mé của ông với một tu sĩ cả đời tranh đấu vì lẽ phải bằng chính mạng sống chứ không phải bằng cái miệng bô lô ba la như ông đâu. Lối hỏi của ông là lối nâng quan điểm mà bọn công an Việt Cộng đã sử dụng khi thẩm vấn. Nhưng để cho công bằng thì nếu ông đã hỏi Thầy Viên Lý câu số 1 thì nay tôi mạn phép hỏi lại ông cũng một câu tương tự như ông đặt ra với vị tu sĩ này: những ngày 27, 28, 29 Thiếu Tá Liên Thành ở đâu, nói cho anh em biết đi. Hỏi thì hỏi như vậy thôi chứ thật ra làm sao mà Liên Thành trả lời câu hỏi này được. Ông thừa biết rằng nhân chứng đã từng làm việc với ông và biết ông hiện nay còn ở Mỹ nhiều lắm. Vì sống trong tù Cộng sản lâu năm nên kinh nghiệm cho phép tôi tin rằng những anh nào miệng hùm gan sứa và lộng ngôn như ông thì Việt Cộng nó chỉ nhốt cho vài tuần, cho ăn đói nhịn khát là lạy lục xin khoan hồng rồi.

Riêng các câu 2, 3, 4, tuy là hỏi, nhưng rõ ràng là ông Liên Thành mang mớ kiến thức về những ngày Tháng 4 để “giảng” cho Tỳ kheo Thích Viên Lý biết là tại sao người ta lại gọi ngày 30 tháng 4 là ngày Quốc Hận. Ông nhấn mạnh đại khái rằng đây là những ngày tang tóc điêu linh của dân tộc mà tại sao Chùa Điều Ngự lại long trọng tổ chức long trọng Lễ Phật Đản. Một số bạn tôi  khi đọc được lá thư ông Liên Thành gởi cho Thầy Viên Lý thì họ rất giận dữ lắm. Chúng nó chửi thề và bảo tôi: “Bộ nó tưởng nó là Thủ Tướng chắc. Mà chỉ có loại thủ tướng như Nguyễn Tấn Dũng mới có cái giọng ma tịt như thế chứ nếu hắn là thủ tướng của một nước văn minh ai mà nói năng thiếu kiến thức như thế”. Các bạn bè tôi đều là dân nhà binh và không thằng nào bỏ chạy trước lính tráng của mình cả nên họ bạo miệng. Tôi nghĩ là bọn bạn tôi nó nóng tính, nói cho hả rồi quên. Nhưng tôi thì không quên, bởi cho đến nay chuyện mất nước vẫn làm cho tôi khắc khoải mãi. Đồng ý là những ngày của Tư cách đây 37 năm tang tóc và đẫm máu thật. Nhưng người ta chỉ thích nói đến tang tóc đó như là hậu quả của việc Việt Cộng không tôn trọng Hiệp Định Paris đánh chiếm Miền Nam mà không ai muốn nói đến trách nhiệm giữ nước mà không giữ được nước thuộc về ai? Phải có người trách nhiệm chứ không lẽ sự kiện mất Miền Nam Việt Nam khiến cho hàng chục triệu người dân Miền Nam Việt Nam khổ lại không có ai chịu trách nhiệm. Đổ hết cho Nguyễn Văn Thiệu? Trần Thiện Khiêm? Nguyễn Cao Kỳ và mấy ông thủ tướng, Quốc Hội hay các giới chức lãnh đạo quân đội? Chưa đủ! Ở Mỹ có một từ ngữ hay lắm. Đó là từ “nhà cầm quyền”, một từ bao gồm tất cả bộ máy giữ trọng trách điều hành và bảo vệ đất nước. Khi quân đội Hoàng gia Nhật Bản thất trận năm 1945, không phải chỉ có những sĩ quan cao cấp trong quân đội mới mổ bụng tự sát để bảo toàn danh dự và chuộc lỗi với nhân dân mà cón cả binh lính nữa. Họ tự sát nhiều đến nỗi Nhật Hoàng phải ra chiếu cấm chỉ. Ông chỉ nói với các binh linh và sĩ quan trong quân đội Nhật rằng ông và vị Thủ Tướng là những người chịu hết trách nhiệm của việc thất trận chứ không phải họ. Ngày nay chúng ta không đi theo cái văn hóa đó của quân đội Nhật Bản nhưng tôi tin rằng trong lòng mỗi người cựu chiến binh VNCH đều có những mối u uẩn pha chút ân hận vì mình đã không bảo vệ được đất nước, cho dù phần lớn những sai lầm căn bản của cuộc chiến đến từ các nhà lãnh đạo hàng đầu. Ông Liên Thành chắc tưởng mình là người chiến thắng nên mới có cái giọng điệu xách mé như thế. Tôi khuyên Liên Thành từ nay trở đi bỏ cái lối viết lách cả vú lấp miệng em đó đi vì tôi sợ rằng một ngày nào đó có người hất hàm nói: “Hey, anh là sĩ quan cao cấp làm ăn ra sao mà để mất nước khiến bao nhiêu người khổ, tội anh tôi chưa nói tới thì thôi lại còn bày đặt cấm mới lại chẳng cản…” thì chắc ông khó cãi lại đấy.

Điều làm tôi ngạc nhiên nhất là ông Liên Thành tự xưng ông là Phật tử. Ông là Phật tử mà ông chẳng hiểu gì về ý nghĩa của Ngày Phật Đản cả. Ngày này, người Phật tử chân chính phải mở rộng tấm lòng và hiển dương từ bi hỉ xả. Trái lại Phật tử Liên Thành với gốc gác gia đình Phật giáo thuần thành đã nộ khí xung thiên một cách vô lối và vô lý với câu hỏi ngỗ nghịch là tại sao Chùa Điều Ngự lại cử hành Lễ Phật Đản trùng với những ngày đau thương của dân tộc. Ngày Phật Đản là ngày lễ trọng của Phật giáo cũng tương tự như ngày Giáng Sinh của Thiên Chúa Giáo. Vụ tấn công khủng bố khiến hơn 3,000 thiệt mạng New York xảy ra vào ngày 11/9 năm 2001 thì ngày 25 tháng 12 năm 2001 là Lễ Giáng Sinh, đâu có người dân Mỹ nào đòi hỏi các nhà thờ không nên cử hành lễ đón mừng Thiên Chúa Giáng Sinh đâu. Trái lại dân chúng còn được khuyến khích cứ sinh hoạt bình thường, mua sắm vui chơi để cho quân khủng bố thấy rằng chúng không thể chiến thắng bằng bạo lực được và phải hiểu nước Mỹ trỗi dậy từ những đau thương đó. Huống chi, ngày Phật Đản vốn dĩ không phải là ngày vui chơi mà là ngày mà mọi người con Phật phải lắng lòng mình lại, gột rửa tâm hồn cho thanh sạch, sám hối để cùng nhau ngợi ca ánh đạo vàng. Tùy theo mỗi hoàn cảnh và sự thuận tiện cho Phật Tử đến dự lễ, mỗi chùa tự chọn cho mình ngày thích hợp nhất để cử hành Lễ Phật Đản. Vậy thì hà cớ gì mà “kiêng cữ” không cử hành lễ Phật đản vào ngày đau thương của dân tộc. Trong những buổi lễ trọng như vậy, chắc chắn những Phật tử không ngại ngùng gì mà không góp lời cầu nguyện những người đã bỏ mình vì tự do. Chuyện cấm kỵ không vui chơi vào ngày này, ngày nọ của Cộng sản cũng là điều không biết do ai đặt ra, nhưng nó thật là vô lý, nghịch lý và hoang tưởng. Bởi vì nếu như vậy thì những người Việt tị nạn không nên vui hưởng ngày Lao Động Mỹ 2 tháng 9 hàng năm vì ngày ngày trùng với Ngày Quốc Khánh của Việt Nam Cộng Sản?

Đại lễ Phật đản tại Chùa Điều Ngự thu hút đến trên 2,000 Phật tử và sự có mặt của hầu hết các viên chức chính quyền địa phương, không thiếu mặt một người nào. Trước khi trở về chùa để cử hành lễ Phật đản, Thầy Viên Lý và tăng đoàn nhà chùa đã tham dự tất cả những lễ tưởng niệm 30-4 của cộng đồng diễn ra ở Little Saigon. Với tư cách là một nhà tu và là Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, Tỳ Kheo Thích Viên Lý đã làm đầy đủ bổn phận của một tu sĩ Phật giáo, còn gì nữa mà ông Liên Thành hạch sách Thầy. Mà nói thẳng ông là cái quái gì ở vùng đất này mà ông lên mặt như thế. Trong lần ông phổ biến cuốn Biến Động Miền Trung, khi viết về cuốn sách đầy những lỗi lầm, mâu thuẫn, sửa lại lịch sử, tôi đã hết sức kiên nhẫn và tự chế khi viết bài phê bình. Nhưng lần này thì không, bởi tôi thấy ông vô lý và hèn quá. Tôi trộm nghĩ Miền Nam Việt Nam mất một phần cũng chỉ vì những người thiếu trách nhiệm như ông. Tôi hiểu ông múa may cũng chỉ để bán sách. Ông có quyền đó, nhưng nếu ông dùng quyền này mà hạch sách thiên hạ như những tên công an thẩm vấn của Việt Cộng thì điều đó không thể tha thứ được. Có lẽ ông cũng nên chuẩn bị để đi làm ăn ở nơi khác đi là vừa, bởi vì sau khi lá thư của ông gởi chùa Điều Ngự được công bố và việc làm quang minh chính đại của nhà chùa, chiếc mặt lạ của ông đã rơi xuống và con người thật của ông được phơi bày trước bàn dân thiên hạ không phương che giấu. Cho nên, đừng bao giờ tự cho mình có cái quyền này quyền kia đối với người khác trong khi mình cũng chỉ mang thân phận của người lưu vong chỉ vì để cho cái phần đất mình đang làm chủ rơi vào tay đối phương khiến phải chạy sang xứ khác dung thân!
Lời khuyên của tôi đối với ông Liên Thành là lần sau đừng có mang cái gốc gác của mình ra mà dọa thiên hạ. Ăn thua là còn người ông chứ không ai lấy gốc gác gia đình ông để đánh giá. Nhầm chết đấy ! Tôi cũng thông báo cho ông biết là hiện nay bọn cầm quyền ở Hà Nội chẳng coi người dân ra cái gì cả. Chúng không che giấu sự đàn áp hung tàn của chúng, chà đạp lẽ phải. Ông Liên Thành tự mô tả mình là người đứng về lẽ phải, nên tôi nghĩ đồng bào trong nước đang cần có người giúp họ lập lại lẽ phải mà họ đã bị tước đoạt, ông nên về Việt Nam đấu tranh chống lại bọn Cộng sản hung tàn để trợ lực họ. Người ta sẽ phục ông sát đất và sách của ông bán chạy như tôm tươi, chẳng cần phải múa may quay cuồng quảng cáo như ông hiện nay đâu. Lời nhắn của tôi: ông Liên Thành ráng trau dồi Việt ngữ, ông viết sai chính tả nhiều lắm đấy. (VA)

                     *********************************************
THƯ MỜI
Ngày 29 tháng 3 năm 2012
            Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
            Kính t hưa quý đồng hương, Phật tử,
            Cách đây 2636 năm, vì lòng từ bi Đức Phật đã thị hiện đản sanh để cứu độ muôn loài. Để đền đáp công đức hoá độ sâu dày của Đức Từ Phụ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn, Văn Phòng II Viện Hoá Đạo và Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Tại Hoa Kỳ sẽ long trọng tổ chức Đại Lễ Phật Đản Phật lịch 2556 tại:
           
Địa điểm: Chùa Điều Ngự, 14472 Chestnut St., Westminster, CA 92683. Tel: (714) 890-9513; Fax: (714) 897-8760; Email: chuadieungu@gmail.com

Thời  gian:
*/Thứ sáu, ngày 27 tháng 4 năm 2012:   Nghi Thức Cúng Dường Thanh tịnh Tam Nghiệp - Thuyết Pháp.
*/Thứ bảy , ngày 28 tháng 4 năm 2012: Từ 8 giờ sáng đến 9 giờ tối: Khoá Tu Đại Bi Tâm Pháp.
*/Chủ nhật, ngày 29 tháng 4 năm 2012: 2 giờ chiều: Chánh Lễ Khánh Đản Phật lịch 2556 và Lễ Đặt Viên Đá xây dựng ngôi Chùa Điều Ngự mới.

             Thay mặt Ban Tổ Chức, chúng  tôi thành tâm kính mời chư liệt vị quang lâm tham dự Đại lễ. Sự hiện diện của quý liệt vị sẽ không chỉ biểu tỏ lòng tri ân sâu xa lên Đức Phật mà còn thể hiện quyết tâm bảo vệ chánh pháp trước cơn pháp nạn bức thiết hiện nay.
                                                                                     Trân trọng,
                                                                    Phó Viện trưởng Viện Hoá Đạo,
                                                                    Chủ tịch Hội Đồng Điều Hành
                                                                    kiêm Trưởng ban Tổ Chức
                                                                      Tỳ kheo Thích Viên Lý

Friday, May 4, 2012


     
 Thư cho người bạn  trẻ                                                                                                                                                                                        
                                  Xin gởi niềm tin yêu
                                                   Bạn là kẻ khi non sông lâm nạn   
                                                   Không an thân, cúi mặt chịu ươn hèn.
                                                   Bằng kiêu-hãnh, bạn xông vào thử thách.
                                                   Quyết hy-sinh cho Tổ-Quốc sống còn.
                                                                                               
                                                                                 Tống Phuớc Hiến
                                                         *

(Viết để kính tặng các bạn trẻ trong tổ chức:
Thanh Niên Cờ Vàng và Đoàn Thanh Sinh Phó Đức Chính)


                                                                  ********

                           

                 

             Thế là tôi đã được đến với và đến gần các bạn! Những người mà tôi hết lòng tin cậy và thương mến. Nhờ được đi bên cạnh các bạn, tôi càng tin chắc rằng: Khi Ðất Nước ngập chìm trong nỗi phẫn hận vô biên bởi sự thống trị độc ác, vô luân thì ý thức dấn thân cho Cách Mạng bỗng nhiên bừng dậy và sau đó lòng yêu quê huơng ngùn ngụt biến thành sức hấp lực ngút ngàn, lôi người dân đứng dậy, chấp nhận truân chuyên bất hạnh cá nhân cho tổ quốc sinh tồn mà thanh niên là thành phần bị lôi cuốn mãnh liệt nhất. Và vì thế, tôi thấy: Tôi dường như trẻ lại, dường như mái tóc đã pha màu sương giá được thắm xanh màu năng động. Từ trong đôi mắt các bạn, tôi tìm thấy được tôi của những ngày xa xưa!
                      
            Bối cảnh xã hội của mỗi thế hệ tác động lên trên khoảng thời gian mà con người khôn lớn và trưởng thành, nên nỗi suy tư của hai thế hệ chúng ta chưa được thông dòng. Nhưng nệ hà chi! tôi vẫn lạc quan, vì chúng ta có chung ngôn ngữ -  Ðó là: Chúng ta có cùng một hoài bão tha thiết với quê hương, có cùng một tấm lòng trong sáng; nghĩa là chúng ta có cùng một hướng nhìn và có chung một hướng đến. Từ những cái cùng, những cái chung ấy, chúng ta đang nắm tay nhau và cũng từ đó nẩy sinh ra ý thức giao thoa và trao chuyền.

Qua đôi mắt các bạn, tôi đón nhận từ trái tim, những mối suy tư của các bạn: Các bạn gởi đến tôi lòng thương mến và thái độ thẳng thắn minh bạch, nghĩa là khoảng cách chúng ta đang dần dần thu ngắn lại.    
                   

 Có lần, tôi e ngại, sợ rằng vì thiếu kinh nghiệm làm ngăn trở khả năng, nên các bạn dễ thất bại hay nếu thành công thì cũng bị giới hạn. Nhưng sự thật với tài năng, với khôn ngoan và với lễ độ, các bạn đã thành công ngoài dự tưởng của tôi, thật không ngờ khả năng các bạn thật hoàn mỹ. Vì thế, lòng tôi thêm rộn ràng, tràn ngập niềm vui, niềm tin về tương lai của giống nòi. Chúng tôi sắp bước vào tuổi “thất thập”; hôm nay có các bạn, chúng tôi an lòng để đặt chân đến “cổ lai hy”.

            Dù rằng xưa kia, thế hệ chúng tôi đã chịu đựng, đã cố sức vẫy vùng nhưng vì kém tài năng, thiếu bản lãnh và có lẻ lại thừa dư kiêu ngạo; giàu ích-kỷ và thiển cận nhưng lại nghèo vị tha: Nên hôm nay non sông đắm chìm trong đau thương tan nát, nhân dân lầm than cơ cực trong ngu dốt đói nghèo bởi ách nạn cộng sản, và hôm nay, đường đi đến tương lai của quê hương còn mãi gập ghềnh.

Các bạn và chúng tôi lớn lên nhờ hào quang của tiền nhân. Nhờ lịch sử giống nòi, chúng ta được ngẩng cao đầu, và bây giờ lịch sử cũng chỉ cho chúng ta từng bước trên hành trình đấu tranh giành lại quyền sống cho dân tộc. Chưa hẳn lịch sử là những bước tái lập, nhưng lịch sử cho chúng ta kinh-nghiệm, cho chúng ta lòng tự hào, tính tự trọng, và nhất là lịch sử kín đáo cất dấu di huấn tổ tiên. Di huấn ấy tiềm ẩn trong mỗi câu chuyện mà có khi chúng ta nghĩ là thần thoại, là hoang đường. Tất cả ngần ấy thứ đã từng là và mãi mãi vẫn là chìa khóa vạn năng để miếu đền tổ tiên được bền vững, để dân tộc Việt Nam được hãnh diện sánh bước cùng bè bạn năm châu, bốn biển. Lịch sử chính là cẩm nang giữ Nước!

            Nhìn những bước chân đi của các bạn, tôi không khỏi bùi-ngùi! Sự xúc động ngậm ngùi ấy làm xốn xang kỷ niệm về những bước chân chúng tôi đã đi qua.

Thật vậy, đàn anh chúng tôi đã một lần vào những năm kháng chiến của cách mạng mùa thu 1945 đã lạc đường vào lịch sử hoặc không chuyển xoay được tình hình để lịch sử lỡ mất một cơ may hầu tạo nên vận hội mới cho rạng rỡ giống dòng. Vì vậy lịch sử đành phải chuyển hướng, nên quê hương bị nghiệt ngã bởi bàn tay cộng sản với búa liềm đẫm máu oan khiên.
Rồi chúng tôi, cũng không tìm được đường cho lịch sử khai thông, bởi vì chúng tôi đã khoán trắng mệnh nước cho lớp người bất xứng, và cũng có thể do chúng tôi chưa thuộc câu:   ” Uy vũ bất năng khuất ”; cho nên mãi dến hôm nay CSVN vẫn còn đủ sức tiếp tục lăng mạ lịch sử, tiếp tục chà đạp lên danh dự và lòng tự hào từ cha ông di truyền .

                      Đàn anh chúng tôi đã ngậm ngùi giao lại cho chúng tôi kết quả của sự lầm lỡ! Và hôm nay, chúng tôi lại cũng ngậm ngùi nhìn các bạn nối tiếp bước chân bất lực của chúng tôi để lần đường tìm vào lịch sử.

Bằng lương tri ái quốc, tuổi trẻ Nguyễn Thái Học đã phải xót xa quyết định:“ Không thành công thì cũng thành Nhân” như thế vẫn còn hơn là không thành gì cả! . Theo tôi, nếu chúng ta triệt để tận dụng năng lực, tận dụng thời cơ với tất cả quyết ý chí quyết liệt thì chúng ta sẽ được cả thành công lẫn thành nhân. Nghĩa là chúng ta phải giành lấy cơ hội để làm chủ lịch sử.

            Theo tôi, lương tâm chưa đủ sức cứu nước. Cứu nước còn phải được thực hiện bằng hành động mà sự lương thiện và lương tri ái quốc sẽ thúc đẩy, sẽ chỉ lối cho mỗi suy tư, cho mỗi thái độ, giúp chúng ta tìm ra phương tiện hữu hiệu nhất cho mục tiêu cứu quốc và kiến quốc.

Ngoài kia, tiếng chim líu lo chờ bình minh của một ngày mới. Tôi đang nhắm mắt để tận hưởng niềm vui sướng về tình bạn đã hình thành và đang lớn mạnh trong tim tôi. Từ đó, dòng tuy tư dẫn tôi về ngày mai rạng rỡ ánh vàng màu lúa chín và mùi thơm trên quê-hương .

Các bạn ơi:
           Ðất-Nước sẽ hồi sinh.
Add caption
           Ngày ấy sẽ phải đến, xin cho tôi được hòa chung nhịp tim rộn rã, xin cho tôi được góp một nụ cười. Lúc đó, dù đôi chân đã quá yếu, tôi cũng xin được tựa vào các bạn để nhìn lại non sông. Tôi bỗng nghĩ rằng các bạn là những cây tre trong bụi tre của Thánh Gióng ngày xưa ngài đã dùng để đánh bại quân phương Bắc xâm lăng đất nước chúng ta.

Tôi sẽ nhìn về dãy núi xa xa nơi tận cuối chân trời, nơi mà các bậc sinh thành ra tôi đang chờ đón tôi và dĩ nhiên, bằng tất cả nổi hân hoan, tôi rạng rỡ nụ cười, tôi sẽ:

- Thưa Cha Mẹ: Tổ Quốc Việt Nam vẫn trường tồn. Dân Tộc Việt Nam vẫn mãi là Dân Tộc cần được tồn tại và có vị trí xứng đáng trong cộng đồng nhân loại

            Xin chào tạm biệt các chiến hữu trẻ, những người bạn mà tim máu tôi được hòa chung nhịp đập.

Cuối cùng, xin cho tôi được đan tay cùng các bạn kết nên một sức mạnh và được cùng với các bạn chung một danh xưng: Chúng ta.

                                            
                                                                                     
                                           Tống Phước Hiến