Tống Phước Hiến
AI CHỌN
Và
CHỌN AI
****************************************
Tuyển tập ghi nhận quan điễm Nhân Dân Việt Nam
Từ sau 30 tháng 4 năm 197
Lời cảm tạ
Tống Phước Hiến
Quê-hương đang bị Cộng-sản Việt-Nam (CSVN) đày đọa! Núi sông điêu tàn hiu hắt, đồng bào rên xiết hờn căm. Nỗi phẫn hận ấy đang bị cợt đùa lăng nhục bởi CSVN ngang nhiên, trâng tráo ép đặt rằng: “Xã-hội chủ-nghĩa ưu việt, mà Bác Hồ trên đường cứu nước tìm được và nhân dân tin tưởng, cương quyết đi theo con đường Bác đã chọn”. Một người bình thường, cũng thấy tập đoàn Hồ-Chí-Minh (HCM) lưu manh bán Nước, giết hại các nhà ái quốc, tiêu diệt các đảng phái, các giáo phái và bất cứ ai không chấp nhận thân phận nô hèn thần phục chúng. Luân lý là đạo lý Dân tộc bị chúng bắt buộc phải hiểu theo nghĩa của đảng Cộng-sản. Nghĩa là các tên đầu sỏ đảng CSVN là siêu-việt, là thần thánh, bất khả bình phẫm, bất khả nghi ngờ. Vì tôn giáo là phương tiện triết học, chuyên chở trên nền tảng đạo lý nhằm hướng dẫn con người trở về với bản ngã “nhân chi sơ tính bổn thiện” nên cũng thuộc vào phạm trù cần tiêu diệt. Cộng-sản phá hủy tận gốc rễ mọi hình thái có thể thúc đẩy con người dám ngẩng cao đầu.
Nhân-dân Việt-Nam vì bị mỵ lừa bởi ngôn ngữ ẩn chứa tình cảm thiết tha và thiêng liêng như Tổ-Quốc, như đoàn kết, như tha thứ, như giống nòi... nên phải sa vào cạm bẩy và đã bị hành hạ, bị đày ải ngục tù, bị sát hại dã man. Nỗi hận hờn triền miên trở thành động lực lôi kéo nhân dân Việt Nam vùng dậy đòi quyền được làm người, làm chủ chính vận mạng mình và Quê-hương mình!
Chắc chắn Nhân-dân Việt-Nam dứt khoát không bao giờ chấp nhận cái gọi là “Dân-chủ tập-trung” kiểu cộng sản. Thứ dân chủ mà HCM gân cổ ca ngợi tốt đẹp gấp triệu lần dân chủ tư bản phương Tây. Hãy nghe Nguyễn văn Trấn nguyên giáo sư trường Ðại-học Nhân-Văn Hà-Nội tường thuật một khóa học thứ nhứt có tên là – khóa “Trí-thức lớn” dành cho các nhà trí thức lớn, những nhà Nghiên Cứu Chính-Trị, Bác-Sĩ, Tỉnh Trưởng, Luật Gia, Giáo Sư...,như: Phạm-văn-Ðồng (thủ-tuớng), Nguyễn-văn-Tạo (bộ trưởng Lao-động), Hòang-Minh-Giám (Hiệu truởng truờng sở tại).
Khóa học quan trọng đến độ phải báo cáo thường nhật cho HCM, và đích thân HCM đến giãi đáp thắc mắc cho các học viên. Bài tường thuật ấy như sau:
“Bác không đi vào những vấn đề nêu trên bích báo. Sa chân vào đó thì làm sao ra được. Nhưng cũng không khỏi nói tới bích báo hỏi: “Dân-chủ tập trung là gì ?”
HCM dã giải thích: “...Như các cô, các chú có đồ đạc, tài sản gì đó thì các chú các cô là chủ, đó là Dân chủ. Các chú các cô không biết giữ, tôi giữ giùm cho.Tôi tập trung bỏ vào rương. Tôi khóa lại và bỏ chìa khóa vào túi tôi đây. Ðó là tập trung!”
Trong hội trường phía học viên lặng trang. Phía công-nhân viên, cười ì xèo.”
Tại sao HCM dám xem khinh những “Trí thức lớn” như thế?
Phải chăng: - Vì Hồ không hiểu được kiểu cười ì xèo biểu lộ sự khinh khi, chán chường, hay vì Hồ biết trí thức hèn, họ không dám có hành động của bậc Trí-thức chân chính.Tuy nhiên, Hồ cũng có phần e ngại vì trong bích báo đã rành rành tuyên bố:
“Trần-Dần, Lê-Ðạt, Phan-Khôi,
Các bác đi trước, rồi thì cháu theo.”
(Những chữ trong “....” trích từ quyển Viết cho Mẹ & Quốc-hội của Nguyễn-văn-Trấn.Trang 187 – 188 – Văn-Nghệ xuất bản – 1995).
- Hoặc vì đảng Cộng-sản là loại người không có tim nhưng lại có búa tạ và lưỡi liềm bén ngót, sẵn sàng sát phạt bằng những nhát búa ti tiện hèn hạ lên trên sinh mạng Dân-Tộc.
CSVN cúi đầu, khom lưng, khúm núm trước quan thầy Nga sô, Tàu cộng; nhưng với Tổ tiên thì ngạo mạn hỗn láo mất dạy. Bài thơ dưới đây do HCM viết trên vách tại đền thờ Ðức Hưng-Ðạo Ðại-Vương Trần-Quốc-Tuấn khi đoàn quân của đảng CSVN nghỉ nhờ qua đêm trên đường từ cái gọi là “ chiến khu Việt-Bắc ” (nơi an toàn để hưởng lạc của tập đoàn đầu đảng HCM) về tiếp thu thủ-đô Hà-Nội. Từ đại danh-từ xưng hô “tôi, bác” đến khẩu khí của bài thơ chứng minh HCM là tên vô lại, là kẻ tiểu nhân đắc chí, cả gan dám sánh ngang vai với Tiền-Nhân lẫm liệt anh hùng - điều mà đạo lý Dân-Tộc không bao giờ dung thứ:
Bác tôi, tôi bác - cũng anh hùng,
Tôi bác cùng chung nghiệp kiếm cung.
Bác đuổi quân Nguyên thanh kiếm bạc,
Tôi trừ giặc Pháp ngọn cờ hồng.
Bác đưa một Nước qua nô lệ,
Tôi dẫn năm Châu đến đại đồng.
Bác có linh thiêng cười một tiếng,
Mừng tôi cách mạng đã thành công.
Bài thơ gây phẫn giận. Một Nho sĩ vô danh họa lại, và cho biết rằng: Thành quả kháng chiến của toàn dân đã bị Hồ và đồng đảng bằng thủ đoạn lưu manh đê hèn: gian lận, bịp bợm, cướp đoạt:
Ngàn năn bia miệng tiếng gian hùng,
Thế cũng xưng rằng nghiệp kiếm cung.
Ðem nướng muôn dân trong lửa đỏ,
Vùi thây trăm họ mảnh cờ Hồng,
Cam tâm bán Nước cho Nga Pháp,
Trơ mặt buôn dân với Giáp Ðồng.
Một ván cờ gian ngàn tiếng nhục,
Tội còn chưa kể, kể chi công!
Chúng tôi là một trong hơn 80 triệu người VN xót xa, uất hận, hờn căm khi tập đoàn đảng CSVN thống trị nghiệt ngã Quê-hương. Chúng tôi cũng là một trong hơn 80 triệu dân Việt ước mơ chế độ hoang thú Cộng-sản tiêu tan dưới lửa phẫn hận. Toàn dân VN được tự-do chọn lựa chế-độ chính trị.
Muốn ước mơ thành sự thực, chúng ta phải hành động. Chúng ta phải nghiêm khắc, dũng mãnh trả lời cho CSVN biết: Nhân-dân Việt-Nam (NDVN) đã hiểu bộ mặt thật ghê tởm đê hèn của họ. Hôm nay NDVN dứt khoát không còn khiếp sợ họ nữa.
Chúng ta phải chứng minh cho nhân loại biết rằng chúng ta muốn gì. CSVN là chuyên viên láo khoét bịa đặt. Hãy dõng dạc tuyên bố rằng: “Chúng tôi là Nhân Dân đây!”.
Bởi vì CSVN là tập đoàn buôn Dân bán Nuớc. Nhưng lúc nào cũng nhân danh quyền lợi của Nhân Dân (ND). Nên trong tập sách này, chúng tôi muốn chứng minh ND là ai, ND có cho phép CSVN được đại diện cho Họ không và cuối cùng là ND muốn gì?
Nhân dân phải được nhìn như là một lực-lượng Dân tộc. Dù khác biệt về tuổi tác, tôn giáo, địa phương, sắc tộc, địa-vị, trình độ, đảng phái, khuynh hướng chính trị...nhưng cùng có mẫu số chung là tấm lòng ái-quốc và lương thiện.
Họ là Nhân dân, vì họ bao gồm các thành phần công dân như sau:
1- Họ là những công-dân đã tham gia kháng chiến trong hàng ngũ Việt-Minh, nhưng họ có ý thức dám hy-sinh sinh-mệnh cá nhân để bảo vệ sinh mệnh Dân-tộc và lẻ phải. Điển hình, Họ là những người góp phần tạo nên biến cố Phong trào:”Nhân Văn” và “Giai phẫm”.
2- Họ là đông đảo quần chúng thấp cổ bé miệng, là thành phần bị trực tiếp chịu sự thống trị hà khắc của thế lực cai trị. Họ là thành phần mà CSVN phĩnh gạt gọi là “chủ nhân ông của Ðất-Nước”. Vì không có phương tiện tự vệ, vì không có phương cách để phản đối lối trùm đặt gán ghép ép buộc của kẻ thù; họ chỉ còn phương sách duy nhất bày tỏ sự khinh miệt, đối kháng bằng truyền khẩu, rỉ tai những câu thơ, hò, vè, nói lái, những câu chuyện khôi hài dí dõm nhưng đắng cay, sửa lời những bài hát...Loại văn chương bình dân nầy là suy tư, là ước mong và là tiếng nói chính thức của họ.
3- Họ là những người đã từng mù lòa dốc tâm đắc lực góp phần thực hiện cái gọi là “lý-tưởng Cộng-sản”, qua bao biến đổi tang thương, họ cũng đã rộng lòng chấp nhận những lý do ngụy biện cho bao hành động độc ác tày trời của ác đảng CSVN cầm quyền. Rồi hôm nay, vào tuổi chiều xế bóng; khi lương tâm trổi dậy họ nhận diện được chính họ đã từng là những tên đao phủ trong tập đoàn đao phủ có cái tên là Trung-Ương Ðảng CSVN. Giờ đây họ can đãm tự xếp mình vào“thành-phần phản-kháng”.
4- Dĩ nhiên, họ còn là những Trí thức chân chính, người dân lương thiện mà từ lâu đã là những chiến-sĩ lao mình trên tuyến đầu lửa đạn, chống quân vô lại trong băng đảng sơn lâm thảo khấu CSVN; hầu giành lại quyền làm người và tự do cho Dân-Tộc.
Chúng tôi cũng muốn nhắc đến Lực-lượng những người Quốc-Gia chân chính yêu Nước nhưng Họ không cần có mặt trong tập sách nhỏ nầy; vì họ đã rõ ràng chọn lựa, dứt khoát và minh bạch ý chí bằng hành động, bằng thái độ như nhà Trí thức chân chính Hà-Thúc Như-Hỷ bày tỏ trong tác phẫm “Thiên hùng ca Dân-Tộc Việt” như sau:
Dân Nước tôi
Từ Vũ trụ kết tinh
Có âm dương nhật nguyệt
Có Tiên Rồng truyền thuyết.
Và:
Dân Nước tôi
Trai gái một lòng
Thề gìn giữ Non Sông gấm vóc
Từng mang tên “Hòn ngọc viễn đông”
Và cũng là:
Một Quốc gia duy nhất
Trong vùng Thái-Bình-Dương
Dùng mẫu tự La-tinh
Diễn âm tư tưởng Việt.
Khi Quê-hương lâm nạn, những Chiến-Sĩ Quốc-gia như: Nguyễn-Khoa-Nam, Lê-Văn-Hưng, Phạm Văn Phú, Trần văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Hồ Ngọc Cẩn, Nguyễn-Văn Long v..v...đại diện từ Tướng Lãnh, đến Sĩ-Quan, Viên chức, binh Sĩ, Văn Nhân và thường dân đã tận trung báo Quốc:
Một mai sau
Và mãi mãi muôn đời
Nguyễn-Khoa-Nam
Tên Người còn nhắc nhở
Người Anh hùng vị Quốc vong thân
Sinh vi Tướng, tử vi Thần
Một cái chết hơn ngàn lần sự sống
Một cái chết làm cúi dầu giặc Cộng
Ðể Miền Nam kiêu hãnh ngẩng mặt lên
Cho Hương-giang rửa sạch ưu phiền
Và Tiền giang triền miên thương tiếc.
Một Ðất-Nuớc hoa gấm, thông minh và anh hùng như thế đã bị Hồ-chí-Minh và đám thủ hạ làm điên đảo, oan khốc, rên xiết lầm than, cơ hàn tủi nhục:
Máu đã không đổ lan tràn
Nhưng máu đã âm thầm ngấm sâu vào đất
Một Việt-Nam thống nhất
Nhưng Việt-Nam đã mất hết tình Người.
Và :
Ðến hôm nay có ai qua biển cả
Trên sóng chít khăn tang trắng xóa
Vẫn còn nghe tiếng khóc Mẹ già
Tiếng hờn oán lan xa trong gió hú
Trên đợt sóng nhấp nhô
Bập bềnh trôi áo quần giày mũ
Trôi tim về làng củ quê xưa
Ðể nhắc Người nhà đừng mong chờ nửa
Người ra đi đã chẳng hứa ngày về.
Chẳng hứa ngày về nên đừng mong chờ, bởi vì ra đi là tái lập phòng tuyến mới, là tiếp bước Tiền nhân thề đem máu đào xương trắng hy sinh cho lịch sử thông giòng. Khi Ðất Nước lâm nguy phải trực tiếp chiến đấu, thực tế đã chứng minh rằng:“ Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi ” nên mảnh giấy văn bằng không còn cần thiết cho Người vì lương tri ái Quốc mà hôm nay vào chốn tử sinh:
Hãy nổi lửa lên đốt hết văn bằng
Vì Ðất Nước chỉ cần
Những con tim và khối óc
Những cánh tay hành động
Những Tâm thức mở rộng
Hãy dồn hết mọi nổ lực cho lịch sử sang trang, cho Tổ-Quốc sinh tồn, cho toàn dân reo mừng hoan ca:
Kéo nhau thăm lại thành xưa
Kỳ đài cao dựng lại ngọn cờ
Bay phất phới giữa trời xuân mới
Ðế đô xưa bồi hồi sống lại
Chào đón bước chân bao Triều đại về đây
Nhã nhạc vang lừng trên chín tầng mây
Cờ lọng trống chiêng tưng bừng mở hội
Tổng cộng những đại danh từ HỌ đó, chúng ta có đầy đủ chứng cứ bắt buộc đảng CSVN phải chấm dứt ngay tức khắc mọi sự lạm mạo nhân Nhân Dân. Ðó cũng là một trong những tang chứng mà đảng CSVN sẽ phải trả lời trước Tòa-án Quốc-Tế về tội ác chống lại Nhân-loại. Ðồng thời đảng CSVN cũng phải trả lời trước Tòa-án và lịch-sử Nhân Dân Việt nam về tội phản quốc và diệt chủng.
Vì hãnh-diện là Người Việt-Nam nên chúng tôi cũng muốn được dự phần đóng góp vào trách nhiệm chung của toàn Dân-Tộc. Chúng tôi đã sưu tầm những nỗi niềm uất hận, những nhận định và những ước mơ của toàn dân Việt. Người làm nhiệm vụ sưu tầm xin tự xem mình như một chiến sĩ thu gom, chuyển tải một vài sự kiện thuộc giai đoạn đen tối nhất trong chuỗi hành trình lịch sử. Ðồng thời cũng xin được xem đây như là: những khẩu súng, những viên đạn, những trái phá, những hỏa châu, những thùng nhiên-liệu, tiếp trợ cho chiến trường sục sôi lửa đạn và tràn ngập căm hờn phẫn nộ. Hy vọng đây cũng là tài liệu cho những nhà viết sữ, hầu cung cấp cho hậu thế hiểu biết và có thêm kinh nghiệm về CSVN. Đồng thời cũng cung cấp cho các nhà đấu tranh vì lương-tâm và công lý sử dụng như là chứng liệu lịch sự.
Từ những nguyên-nhân thúc đẩy trên, chúng tôi xin hân hạnh trình diện tập sách nhỏ nầy. Nhân đây, Chúng tôi chân thành kính tri ân các tác giả mà chúng tôi đã mạo muội trích dẫn.Để có đuợc sự sưu tầm nầy, chúng tôi phải học thuộc từ trong nước, nên chắc chắn là không được chính xác nhưng khẳng định là nguyên vẹn về ý chí và mục đích. Sự sưu tập nầy cũng từ những lá thư hoặc do bằng-hữu nói lại hay cắt từ những báo gởi tặng, hoặc do tình cờ chính chúng tôi tìm được, tại những trang báo, tạp chí mà chúng tôi không rõ xuất xứ để xin phép trước. Sở dĩ chúng tôi dám mạo muội như thế vì thiết nghĩ:
- Những sáng tác ấy được các tác giả hình thành trong ý nguyện muốn góp phần tạo sức mạnh cho bánh xe lịch-sử chuyển động, nên cũng muốn đến tận lòng của mỗi người dân.
- Vì không chuyên nghiệp, trình độ còn non yếu của chúng tôi, nên việc sắp xếp bố cục cũng như dẫn giãi chắc rằng sẽ chưa được hợp-lý và chính xác.
Tất cả những nguyên nhân và ý nghĩ ấy, cộng với sự độ lượng của các tác giả có tác phẩm trích dẫn cũng như người đọc cảm thông và sẵn lòng tha thứ, chấp thuận. Ðó chính là điều kiện cho sự góp mặt của tập sách nầy.
Trước khi bước vào phần chính, chúng tôi kính mời bạn đọc cùng với trí thức Hà Thúc Như Hỷ xác định trong tác phẫm “Thiên Hùng Ca Dân Tộc Việt” niềm tin sắc đá vào lẻ trường tồn của Dân Tộc Việt Nam cho dù đang phải ngậm ngùi nơi xứ lạ quê người trên buớc đường lưu vong chờ ngày quang phục lại quê hương:
Giữa phút giây dường như tuyệt vọng
Bỗng bừng lên trời hồng nắng ấm
Người Việt hải ngọai
Đã tìm ra lẽ sống
Một niềm tin dõng dạc bước lưu vong
“Tổ quốc không chỉ là núi là sông
Mà là mảnh đất trong lòng
Mang theo đến tận cùng trong cuộc sống
Trân-trọng,
Tống-phước-Hiến
Cước chú:
Tất cả những đoạn thơ trích dẫn trên, chúng tôi đều từ tập trường thi” Thiên Hùng Ca Dân Tộc Việt” của Bác sĩ Hà Thúc Như Hỷ do Khôi Việt Califorina, USA xuất bản năm 2000
AI CHỌN ?
Và
CHỌN AI ?
*
TỐNG-PHƯỚC-HIẾN
*
* *
Bất cứ lúc nào, hể có dịp, là cán-bộ Cộng sản Việt-Nam (CSVN) nhắc mãi luận-điệu cường-hào: “Yêu Nước là yêu chủ-nghĩa Xã-hội (CNXH) ”
Và :
“Nhân-Dân VN tiếp tục đi tới trên con đường đã chọn: Ðộc-Lập Dân-Tộc và Chủ-Nghĩa Xã-Hội”
Hay:
“Dù hai mươi, năm mươi, một trăm năm toàn dân VN vẫn chấp nhận”.
“Khó khăn chỉ tạm thời cuối cùng thì CNXH vẫn toàn thắng…...”.
Thật ra, Người VN ai cũng hiểu và biết trò lưu-manh áp đặt của Cộng-sản. Bài viết nầy không có ý chứng-minh sự lưu-manh, gian trá, giảo-hoạt của Cộng sản mà chỉ trình-bày về sự phẫn-nộ, về hoài vọng thiết tha của lương dân, của những người đang bị CSVN khắc-nghiệt thống-trị.
Cộng-sản Việt-nam là tổng-cộng những bất-nhân, nghiệt-ngã nhất của nhân-loại nên ngoài căn-tính độc-ác gian-tà, Cộng sản còn phát-minh và thi-triển vô số thủ-đoạn hình-phạt hèn hạ ti-tiện. Kẻ sĩ phản-kháng bằng máu lệ. Ngòi bút chính-nhân của họ dũng liệt đi vào lịch-sử.
Vì người dân bao giờ cũng là nạn-nhân của những thế-lực thống-trị, nên phần lớn bài viết nầy xin gom nhặt lại những suy-tư của tầng lớp bình-dân để biết rằng họ mạnh-mẽ lên án và quyết-liệt bày tỏ thái-độ chọn-lựa bằng vũ-khí muôn đời nhưng vô cùng hữu-hiệu là ca-dao, hò, vè, nói lái....Ðồng thời cũng xin trích dẫn một số ý-kiến tiêu biểu, đại diện cho tầng lớp quan lại đỏ, đảng viên, cán bộ, văn nghệ sĩ Cộng sản nhận xét về đảng Cộng sản về khả năng lãnh-đạo, về ý đồ, về hệ quả mà đảng CSVN tác hại lên trên sinh mệnh Dân Tộc.
Trước hết, ta hãy nghe ông Nguyễn-Chí-Thiện nhà đấu tranh, người tù lương tâm;
người đại-diện cho nhân-dân VN tuyên-chiến với CSVN, kẻ thù của lương-tri và công lý về tù đày oan nghiệt; về những phẫn-uất ngút ngàn. Những hạt máu, những giọt lệ, những ước mơ đó kết thành những đóa hoa thơ :
Thơ của tôi không có gì là đẹp
Như cướp vồ, cùm kẹp, máu ho lao.
Thơ của tôi không có gì cao,
Như chết chóc, mồ-hôi, báng súng.
Thơ của tôi là những gì kinh-khủng,
Như Ðảng, Ðoàn, như lãnh-tụ, như Trung ương.
Thơ của tôi kém phần tưởng-tượng,
Nó thật như tù, như đói, như đau thương.
Thơ của tôi chỉ để đám dân thường,
Nhìn thấu suốt tim đen phường quỉ đỏ.
Ông khẳng-định:
Ðảng như hòn đá tảng,
Ðè lên vận mạng quê-hương.
Muốn sống trong hòa-hợp yêu thương,
Trước nhất phải tìm đường hất xuống.
(Trich trong tập Thơ Hoa Ðịa Ngục của Nguyễn-ChiThiện).
I- Ðảng Cộng-sản Việt-Nam dưới mắt nhân-dân Việt-Nam:
Ðảng CSVN tự phong mình là “giai cấp tiền-phong” được nhân-dân giao-phó trách-nhiệm lãnh-đạo toàn-dân, nên khư khư ôm chặt quyền-lực. Thế nhưng, trong thời kháng-chiến chống thực-dân Pháp, Đảng CSVN thao túng Mặt-Trận Việt-Minh (Việt-Nam Ðộc Lập Ðồng Mimh Hội) giở trò gian-lận, nên người dân tỉnh ngộ và xa lánh:
Chú phỉnh tôi rồi Chính-phủ ơi,
Chiến khu để chú khiêng đi rồi.
Thi-đua sao cứ thua đi mãi,
Kháng-chiến lâu dài khiến chán thôi!
Hay:
Chú phỉnh tôi hoài, chính phủ ơi,
Chiến khu thu lúa, chú khiêng rồi.
Thi đua chi nữa, thua đi hết,
Kháng chiến chi hoài khiến chán thôi.
Sau ngày đảng CSVN lợi dụng cuộc biểu tình 2.9.1945 và bằng lá cờ máu màu đỏ ngôi sao vàng thành lập chính phủ liên-hiệp, rồi gian manh ký hiệp ước sơ bộ 6.3.1946 với thực-dân Pháp, nhằm củng cố lực-lượng, đồng thời tạo thêm điều kiện để ám hại các thành phần Quốc-Gia yêu nước, khuấy phá, đột kích rồi bỏ chạy với mục-đích cho lính Pháp trả thù trên đầu dân, và vì oán hận mà người dân phải theo về với chúng. Bài vè sau đây cho chúng ta thấy người dân vạch mặt gian ác của Việt minh cộng-sản (VMCS), lòng dân hướng vọng về lực-lượng Quốc-Gia Dân-Tộc mà thời bấy giờ Bảo-Ðại với vai trò Quốc Trưởng đang là đại-diện. Ðiều cần lưu ý thời ấy nhân-dân còn bị chi phốí bởi luân lý “Trung Quân Ái Quốc”. Ý-niệm Dân chủ chưa được phổ cập nên bài vè nầy không có ý nghĩa là toàn dân VN mong muốn trở lại chế độ Quân chủ triều Nguyễn, một triều đại đã hằn phá trên giòng Quốc sử quá nhiều máu lệ tủi nhục, hình ảnh ông vua Khải Định tại Pháp đã từng là nỗi ê chề nhục nhã:
Tiếng đồn Khải Định nịnh tây
Nghề nầy nên lấy ông nầy tiên sư
Và cụ Ngô Đức Kế đã giận dữ:
Ai về địa phủ hỏi Gia Long
Khải Định thằng ầy phải cháu ông?
Nhưng tình thế lúc bấy giờ thì Bảo Đại vẫn là nhân vật có tích cách chính danh mà người Quốc Gia có thể khả dĩ chọn làm nhân vật trung tâm cho sự đòan kết :
Nghe vẻ, nghe ve, tôi kể chuyện vè:
“Bảo-Ðại hồi loan”:
Kể từ ngày đánh đổ ngai vàng,
Ngọn cờ pha máu treo lên,
Dân tình khổ cực, chênh vênh phố phường.
Quê hương lắm chuyện tai ương,
Việt-minh với Pháp Ðông-dương nhập nhằng.
Ba lê tạm ước ký rằng:
Quân Pháp ở lại năm năm mới về.
Pháp Nam hai Nước đề huề,
Quân Tây chiếm lại thành trì năm xưa.
Mùa đông bốn sáu gió mưa,
Hai bên chốc bỗng bắn bừa lẫn nhau.
Toàn dân lại đổ máu đào,
Việt-Minh rút chạy ai nào biết đâu?
Không vua dân phải lao đao,
Việt-Minh đêm đến giật cầu, đường đi...
Phá rồi viễn tẩu, cao phi,
Ðể dân cho Pháp làm chi thì làm.
Nhiều người đã bị bắn oan,
Các cuộc đi “ốp” tan hoang xóm làng.
May nhờ Bảo-Ðại hồi loan,
Chủ quyền Quốc-truởng
Đảm đương Nước nhà.
Sau cái gọi là “Cách-Mạng Mùa Thu, Cộng sản sang đọat, cưỡng chiếm thao túng “Mặt Trận Việt Minh”, nên từ đó Việt-Minh bị đồng hóa với Việt cộng. Những chiến sĩ Quốc-Gia trong Mặt-Trận nầy hoặc phải tự động xa lìa, hoặc phải trốn lánh, hoặc bị cộng sản giam cầm sát hại..Cũng có những người vì mạng sống của những người thân thuộc v..v…, chưa có cơ hội đào thoát đành phải ở lại, và đều phải tham dự các lớp học gọi là chính huấn, học tập, cải tạo…:
Từ ngày cách mạng mùa thu
Người khôn phải chịu thằng ngu làm thầy.
Gian manh từ bấy đến nay,
Lừa dân, cướp đoạt nhét đầy túi tham
Quê-hương lâm thãm nạn ngay khi CSVN núp dưới bảng hiệu Viêt-Nam Ðộc-Lập Ðồng-Minh Hội (Mặt-Trận Việt-Minh), mạo nhận danh nghĩa đại diện nhân dân tuyên-bố Ðộc-Lập, thành lập Chính-Phủ Liên-hiệp để khi thì hối-lộ tướng Tàu Lư-Hán, khi thì lén lút điều đình ký Hiệp-ước Sơ-Bộ với thực dân Pháp, khi thì ngấm ngầm hợp tác với Phát xít Nhật. Đảng Cộng sản VN chỉ cần có bất cứ hình thức nào đó khiến người dân lầm tưởng rằng chính quyền do đảng cộng sản nhào nắn ra đã được một số Quốc-gia trên thế giới nhìn nhận. Chính quyền VMCS để mặc dân tình chết oan nghiệt vì đói lạnh, vì đạn bom.
Tàu cười, Tây khóc, Nhật lo,
Việt-Nam độc lập chết co đầy đường.
Lợi dụng truyền thống bất khuất chống ngoại xâm và lòng thiết tha với Quê-hương của toàn dân. VMCS với những thủ đoạn đê-hèn, gán chụp lên trên đầu các chiến sĩ Quốc-gia bằng chiếc mũ Việt-gian, và phản động; dù rằng trên thực tế lúc ấy, hầu hết cán bộ lãnh đạo CSVN đều là những tên Việt gian thực thụ làm điềm chỉ viên cho Pháp, như Hồ-chí-Minh chỉ điểm thực dân Pháp bắt cụ Phan-Bội-Châu để được quân thù tưởng thưởng khoảng 150.000 quan Pháp. Nhân-dân đã vạch mặt gian phi của chúng:
Ngày xưa thân Pháp:Việt-gian,
Ngày nay thân Pháp: hoàn toàn Việt-Minh.
Bằng đủ mọi mánh khóe bạo quyền CSVN biến Tổ-Quốc Việt-Nam thành tài sản riêng của chúng. Đảng CSVN dồn ép nhân dân và biến nhân dân thành khiêng mộc che chở và cũng là nắm đấm của chúng. Chúng mị lừa gọi đó là “Sức mạnh quần chúng”. Bởi thế, hình ảnh Việt-Minh trước kia là chính nghĩa sáng ngời bao nhiêu thì sau khi bị CSVN cưỡng chiếm được thì Việt-Minh bị đồng hóa thành cộng sản, nên từ đó nới có danh từ “Việt-Minh Cộng Sản” và cũng từ đó VMCS đã bị Nhân Dân Việt-Nam khinh khi bấy nhiêu:
Việt-Nam Dân chủ cộng-hòa,
Con tôm, con tép bị ra biểu tình.
Con cá đi lính Việt minh,
Con cua lại cũng ra đình hoan hô
Tại chợ Thái-nguyên trong thời chống Pháp dưới sự lãnh-đạo của cụ Hoàng-Hoa-Thám tức Ðề-Thám người dân hãnh-diện căng tấm bảng để cảnh cáo quân thực dân Pháp như sau:
Nơi đây là đất Ông Ðề,
Tây lên phải chết, Tây về phải tan.
Nhưng cũng tại đây dưới thời kháng Pháp do Hồ chí-Minh lãnh đạo thì:
Nơi đây là đất ông Hồ,
Tây lên chẳng biết, Tây về chẳng hay.
Bộ đội vứt súng, run tay,
Cán bộ thì trốn, thằng Tây làm trời.
Thằng Tây làm trời bởi vì bộ-đội và cán bộ VMCS của Hồ chí Minh lủi trốn biệt dạng. Chúng không đoán được ý định thực sự của quân Pháp nên không kịp xúi dục, ép buộc thanh-niên, phụ-nữ , ông già bà lão và trẻ con xông ra đở đạn cho chúng.
Bằng phương pháp gian xảo lưu manh, kiểu “tráo bài ba lá” CSVN đã khống chế Chính phủ Liên Hiệp Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hòa, biến cái chính phủ nầy trở thành công cụ của chúng nên từ dó, cái trò gian lận bịp bợm, khoa trương về Dân chủ bánh vẻ của CSVN bị người dân tố giác:
Việt-Nam Dân-Chủ thế nào?
Công-đoàn, Mặt-trận...đảng nhào, đảng xoay.
Việt-Nam Dân-Chủ thế nào?
Vong thân giả dối ngày càng tràn lan.
Dưới chế-độ Cộng-sản, người dân bị bắt buộc phải tuyệt- đối trung thành và tuân phục quyền lực đảng CSVN. Những thói phỉnh gạt, lừa đảo, hứa hẹn viễn vông trở thành nếp sống thường hằng nên người dân mai mỉa :
Ðảng ta lắm phép nhiệm mầu,
Ðũa thần một phút: Nước giàu - Dân no.
Quấy không, nước lã ra hồ,
Ruộng khô, đất sỏi vẫn thu ba mùa.
Gạo tiền rớt xuống như mưa,
` Tay không dựng nổi cơ đồ mới hay.
Phép tiên nhà nước giỏi thay,
Hỏi anh cán-bộ cho hay phép gì?
Cán rằng: “Muốn biết khó chi,
Bà con cứ việc dạo đi phố phường.
Thấy đầy biểu-ngữ, bích chương,
Là nền kinh tế tự cường thành công”.
Dân nghèo nhưng vẫn hả lòng,
Về nhà bếp vẫn nồi không tro tàn
Và hệ lụy Cộng-sản là:
Xe xanh, cờ đỏ ,sao vàng, (1)
Ði đâu, tới đó hai hàng lệ rơi.
Hai hàng lệ rơi bởi vì:
Ðảng về mất cửa, mất nhà,
Ðảng về một lũ toàn là ngựa trâu.
Ðảng về chém giết lẫn nhau,
Ðảng về chỉ có mớ rau cầm chừng.
Ðảng về bom đạn đì đùng,
Ðảng về đất nước một vùng tan hoang.
Ðảng về cửa nát, nhà tan,
Ðảng về một lũ sói lang, bạo tàn.
Ðối với Nhân-dân VN, một ngày lễ kỹ-niệm của Cộng-sản là một ngày kinh-hoàng đau xót và phẫn-hận:
Nhớ ngày mồng ba tháng hai, (2)
Liềm búa lễ đài máu đỏ mưa sa.
Nhớ ngày mùng tám tháng ba,
Ðàn ông đi lính, đàn bà đi phu.
Nhớ ngày hăm sáu tháng Tư,
Thanh-niên chết trận hoặc tù quanh năm.
Nhớ ngày mồng một tháng năm,
Công-nhân đào đất xây lăng “bác Hồ”.
Hai mươi tháng bảy lập lờ,
Thương binh, liệt-sĩ được tờ “Vẻ vang”.
Bước sang tháng tám rõ ràng,
Phất cờ khởi-nghĩa xóm làng yên vui.
Nào ngờ vận Nước còn xui,
Mồng hai tháng chín ngậm-ngùi Việt-Nam.
Quê-Hương thù hận ngút ngàn,
Chiến-tranh huynh-đệ tương-tàn từ đây.
Con côi, vợ góa, Mẹ gầy,
Rừng xanh tàn úa, máu đầy biển Ðông.
II -Ðảng CSVN áp đặt quyền lợi của chúng lên đời sống người dân:
Với thủ-đoạn trí trá giảo-hoạt, kể từ ngày thành-công nhờ gian xảo trong cuộc biểu-tình 2.9.1945 để cướp đoạt chính-quyền, CSVN không ngừng lén lút, lưu-manh chia xẻ quyền lực với thực-dân Pháp. Ngày 20.7.1954 Cộng-sản thông-đồng với giặc Pháp ký hiệp-định Geneve lấy vĩ-tuyến 17 (sông Bến Hải) chia hai Tổ-Quốc VN để chiếm đoạt miền Bắc, và giao miền Nam cho thực dân Pháp, thủ-đoạn tráo trở bỉ ổi ấy bị vạch mặt :
Miệng nói hòa bình,
Tay rình đánh trộm!
Hay:
Sáng đúng chiều sai,
Ngày mai lại đúng.
Ngày 30.4.1975 đảng CSVN cưỡng chiếm thêm miền Nam. Suốt từ thời ấy đến mãi hôm nay, lúc nào CSVN cũng rêu rao cương-lĩnh “Ðộc-Lập Tự-Do Hạnh-Phúc“. Quá nữa thế-kỷ sống dưới ách-nạn Cộng-Sản người dân VN chứng-minh cái cương-lĩnh ấy như sau:
ÐỘC tài giết chết người vô tội,
LẬP nhà tù thêm thay học-đường,
TỰ bán thân mình cho Tầu cộng
DO lòng tàn bạo kẻ bất lương,
HẠNH ngộ chỉ còn mơ với mộng.
PHÚC đâu chẳng thấy, thấy đau thương.
Hay:
ÐỘC-LẬP là mất Cam-Ranh,
TỰ-DO là chịu cảnh đời lầm than .
NO cơm là độn bo bo,
ẤM thân là để thò lò Bác ra.
HẠNH-PHÚC là tố Mẹ Cha,
HÒA-BÌNH là bắt trẻ ra chiến-trường.
Hoặc:
TỰ-DO chết đói với nhau,
ÐỘC-LẬP đứng dậy làm thân kéo cày.
HẠNH-PHÚC tràn đầy là đạp xích-lô
Và:
ÐỘC-LẬP - TỰ-DO:
Rửa mặt bằng nước tro,
Cơm ăn không đủ no;
Bo bo thay cho gạo.
Chồng thì đi cải-tạo,
Vợ thì chết chèo queo.
Dân chúng chỉ có nghèo,
Chính-quyền ta hồ-hởi.
Người dân qúa hãi hùng, mạnh mẽ từ chối cái thiên đường mà CSVN dùng làm bánh vẻ qua cái gọi là cương-lĩnh Độc lâp, Tự do, Hạnh phúc cuả Việt gian cộng sản :
Tự-Do chết đói cả nhà,
Hạnh-Phúc vợ góa, mẹ lòa, con côi,
Ðộc-Lập kiểu ấy thì thôi!
Ngay cái gọi là Quốc-hiệu Việt-Nam dân-chủ cộng-hòa trước kia hay Cộng-hòa xã-hội chủ-nghĩa Việt-Nam hôm nay cũng bị người dân lấy đời sống thực tế lầm than, hoặc so sánh với thực dân Pháp để mô tả chính-sách tham ác bạo ngược CSVN.
Việt-Nam dân-chủ cộng-hòa,
Ðồ-đạt bán trước, cửa nhà bán sau.
Có đói thì hãy ăn rau,
Ðừng ăn thịt cá mà đau dạ dầy.
Hay :
Việt-Nam dân-chủ cộng-hòa,
Giặc Pháp thu thuế còn thua lão Hồ.
Người dân kết luận:
Thằng Tây thua, thằng Cộng được,
Nghĩ xuôi, nghĩ ngược; Cộng ác hơn Tây.
Và:
Việt-Nam Cách-Mạng thế nào,
Chuyên-chính vô sản, chích vào cuồng say.
Việt-Nam Cách-Mạng thế nầy,
Ðấu tranh giai cấp đến ngày diệt vong.
Chữ Xã-Hội Chủ-Nghĩa viết tắc là XHCN thì được diễn-dịch đùa cợt một cách tột cùng của sự khinh bĩ:
XHCN = Xuống Hố Cả Nút
Xã-Hội Chưa No
Xạo Hoài Cha Nội
Xã Hơi Chút Nữa
Xơi Hoài Củ Năng
Xiết Họng Con Người
Xiết Họng Công Nhân
Xiết Họng Công Nông
Xạo Hết Chổ Nói
Xóa Hết Chữ Nghĩa
Xếp Hàng Cả Ngày
Xe Hết Chố Ngồi
Xài Hổng Cho Nghỉ
Xui Hết Chổ Nói
Xem Họ Cướp Ngày
Xô Hết Con Người
Xuống Hàng Chó Ngựa.
Từ những nhận định trên, người dân phát hiện ra rằng: ]
Những gì cộng sản làm đều ngược với những gì cộng sản nói.
Người dân đã hiểu bộ mặt thật của CSVN như sau:
Cộng sản nói những gì chúng không làm và làm những gì chúng không nói.
Tổng-Thống Việt-Nam Cộng-Hòa (VNCH) Nguyễn Văn Thiệu đã từng có kinh nghiệm rằng:
” Đừng tin những gì cộng-sản nói, mà hãy nhìn những gì cộng sản làm”.
Như một điềm báo hiệu cảnh giác nhân dân Việt-nam đừng nhẹ lòng nghe CSVN tuyên truyền.
Khi chúng đổi tên các con đường tại Sài-Gòn, nghĩa là ngược lại với thời VNCH như:
Dưới thời VNCH: Đường Công-lý thì cộng sản đổi thành đường Nam kỳ khởi nghĩa và đường Tự-do thì bị đổi thành đường Đồng khởi.
Nên dân Sài-gòn có câu châm biếm rằng:
Nam kỳ khởi nghĩa tiêu Công-Lý,
Đồng-khởi nổi lên mất Tự-Do
Vì cộng sản qúa ác độc, ác độc hơn cả dã thú, bởi thế nên dã thú cũng phải xác nhận rằng cộng sản còn ác hơn chúng:
Từ khi có đất, có trời,
Không gì ác độc hơn loài sài lang.
Sài lang kinh hoảng la làng:
Rằng tôi độc ác đâu bằng cộng gian
III .- Ðảng CSVN là tập đoàn phản Quốc bán Nước:
Nhân dân Việt-Nam vô cùng phẫn nộ, uất hận vì các hành động phản Quốc bán Nuớc của đảng CSVN. Hành động bán nước ấy tạm tóm lược như sau:
1)- Ngày 6.3.1946 Hồ-chí-Minh và đảng CSVN ký với Tổng-trưởng Bộ Thuộc-địa Pháp Marius Moutet hiệp định sơ bộ ( thỏa hiệp án – vivus vivendi) rước quân Pháp đổ bộ vào Bắc Việt và cộng tác với chúng để tiêu diệt các lực lượng Quốc-Gia.
2)- Ngày 20.7.1954 CSVN thỏa thuận, và thực hiện những tương nhượng quyền lợi đã ký kết với thực dân Pháp trong Hiệp định Geneve chia hai Tổ-Quốc VN.
3)-Trường Chinh đã nhân danh Tổng Thư Ký Đảng Lao Động Việt-Nam (tức đảng cộng sản VN) đã ban hành lời kêu gọi mang số 284/LĐ kêu gọi nhân dân không sử dụng thành quả y tế, y học do từ các nuớc tây phương khám phá và cống hiến cho nhân loại cũng như không sử dụng cách viết chữ theo mẫu tự La tinh Tây phương mà trở lại theo phuơng cách của Tàu như ngày xưa. Bản kêu gọi nầy Trường Chinh cho rằng dân tộc Việt Nam phải hãnh diện và biết ơn nuớc Tàu; Trường Chinh mong ước VN được trở về lại vị trí thuộc quốc chư hầu thời Bắc thuộc ( Nhật Báo Tiếng dội số 462 thứ Sáu 24.Aout (8) 1951 – Xem Hồ Sơ Hoàng Sa &Trường Sa và Chủ Quyền Dân Tộc của GS. Nguyễn-Văn-Canh trang 107 do Center for VietNam Studies phát hành năm 2009.
4)- Hồ-chí-Minh chỉ thị cho Phạm-văn-Ðồng, nhân danh Thủ-Tướng Cộng-sản Bắc Việt (CSBV) ngày 19.4.1958 gởi công-hàm đến Chu-ân-Lai Tổng-Lý-Quốc-Viện (Thủ-Tướng) Tàu cộng công nhận chủ quyền của Tàu cộng trên các quần đảo Hòang-Sa (Paracels) và Trường-Sa (Spratleys).
5)- Ngày 30.12.1999 Nguyễn-mạnh-Cầm với tư cách Bộ-truởng ngoại-giao CSVN cùng với Tang jia Xuan (Ðường-gia-Truyền) Bộ-trưởng ngoại-giao Cộng sản Tàu ký hiệp-định gọi là:” Hiệp-Ðịnh về biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc” dâng cho Tàu cộng khoảng 1.000 km vuông. Hiệp-định này do Ủy-ban Thường-vụ Quốc-hội Tàu cộng thông qua vào ngày 29.4.2000. Sau đó Bộ chính-trị, và Ủy-ban Thường trực Quốc-hội CSVN thông qua ngày 9.6.2000. Theo sự tiết lộ của phía Cộng-sản Tàu thì :
a- Cộng-sản Tàu dành được nhiều điễm cao có lợi về quân sự.
b- Một số vùng canh tác của người Việt mà nhiều nhất là thuộc tỉnh Lạng-sơn nay thuộc về Cộng sản Tàu kể cả lãnh thổ lẫn dân cư.
c- Một phần phía bắc sông Kỳ-Cùng và phía bắc sông Bằng Giang nay thuộc về Cộng sản Tàu.
d- Thác Bản-Giốc một danh lam thắng cảnh có sức thu hút khách du lịch nay 2/3 thác và phần chính của thác đã thuộc Cộng-sản Tàu.
đ- Ải Nam-Quan một di tích lịch sử, niềm tự hào của Dân tộc VN, nơi diễn ra cuộc ly biệt giữa hai cha con Danh-Nhân Nước Việt là Nguyễn-Phi-Khanh và Nguyễn –Trãi nay cũng thuộc về Cộng-sản Tàu.
5) Ngày 25.12.2000 Tang Jia Xuan Bộ-truởng ngọai-giao Cộng-sản Tàu và Nguyễn di Niên Bộ-trưởng ngọai giao CSVN dưới sự dự khán của Giang-trạch-Dân chủ tịch Cộng-sản Tàu và Trần-đức-Lương chủ-tịch CSVN ký kết: “Hiệp-Định Phân Định Vịnh Bắc Bộ Việt-Nam và Trung-Quốc” và “Hiệp-Định Hơp Tác Nghề Đánh Cá Giữa Việt-Nam và Trung-Quốc”. Theo hai hiệp định nầy thì chúng ta - tức Nhân-Dân Việt-Nam mất khoảng 15.000km vuông. Những vùng biển có nhiều cá nhất, có bào ngư nổi tiếng và hứa hẹn rất nhiều trữ lượng dầu hỏa, khí đốt nay thuộc về vùng chung. Ðiều cần lưu ý là số tàu thuyền đánh cá, các phương tiện khai thác, chế biến hải sản, dầu khí, nghiên cứu, nhân sự, và vũ-khí phía cộng-sản Tàu luôn luôn mạnh, đông và tối tân hơn CSVN rất nhiều lần. Nói là vùng khai thác chung, nhưng chính phủ Tàu cộng đơn phương ra lệnh cấm ngư dân VN hành nghề tại khu vực nầy. Đã xảy ra rất nhiều lần hải quân Tàu cộng bắn bị thương, giết chết, dánh thủng tàu thuyền, cướp trọn tài sản và các ngư cụ cũng như hải sản ngư dân vừa mới đánh bắt được, bắt nhốt ngư dân VN để đòi tiền chuộc mạng. Trước những hành động hải tặc nầy của Tàu cộng, đảng và ngụy quyền CSVN chỉ thị cho báo chí dưới quyền thông báo là tàu lạ, hay tàu nuớc ngòai và tuyệt nhiên không dám tỏ thái độ phản kháng cũng như không giúp đỡ cho gia đình các nạn nhân tử nạn hay bị bắt giữ đòi tiền cũng như tài sản đã bị Tàu cộng dùng vũ lực chiếm đoạt
6) Ngày 25.12.2001 dưới sự chỉ đạo và trực tiếp chỉ huy của Lê-công-Phụng, thứ trưởng bộ ngọai-giao CSVN, ngụy quyền CSVN làm lễ công khai cắm lại cột mốc biên giới Việt – Tàu . Việc cắm mốc nầy trên thực tế đã lấn sâu vào lãnh thổ Việt-Nam độ 5 km so với biên địa do Pháp ký kết với triều đình nhà Mãn Thanh vào năm 1885.
Bởi thế, Người dân – chứng nhân lịch sữ lên án Hồ chí Minh và đồng đảng Cộng sản Việt nam rằng:
Cộng-sản là lũ phản dân
Mới đem Non Nước dâng cho quân thù.
Xưa quân Mạc, nay quân Hồ,
Biên-cương, hải đảo, cơ-đồ tổ tông
Giang san một giải huy hoàng
Ông Cha để lại bây giờ tan hoang !
Còn đâu là Ải Nam-Quan,
Còn đâu bờ cõi mấy ngàn dặm vuông.
Ðảng cộng, “Cầm “ thú, “Di-Niên”,
Vì bây, tao mất một miền gấm hoa.
Bao giờ Gươm Báu, Nỏ Thần,
Kim Quy trao lại, dân mần thịt bây.
Rồi họ mỉa mai châm biếm Hồ chí Minh và đảng cộng sản:
Mang ơn đảng với bác Hồ,
Ngày xưa Ðất Việt, nay ra Ðất Tàu.
Hoặc họ cay đắng khinh miệt Cộng sản:
Ðảng ta muôn phép tài tình,
Hô thăng, hô giáng dân mình khiếp oai.
Mới đây dùng chiếc đủa thần,
Hét lên một tiếng. lệch nghiêng cơ đồ.
Mấy ngàn dặm đất cõi bờ,
Nam-Quan, Hải phận, Hòang Sa quê nhà
Một vùng hoa gấm bao la,
Bây giờ đảng biến, hóa ra của Tàu!
Nguời dân căm hận chỉ thẳng vào bản mặt cộng sản Việt Nam mà lên án:
Cộng sản dâng hiến Sơn-hà
Xin Tàu bảo bọc, đô la đảng xài .
Mọp lưng cúi lạy miệt mài
Hai chân qùy xuống đền đài ngã nghiêng
Non sông xương thịt Tổ Tiên,
Nam Quan,lãnh hải thiêng liêng máu dào
Giang san hoa gấm ngọt ngào,
Đảng lòi bản mặt, điêu ngoa nịnh Tàu
Vì sao gian quyền CSVN dâng tài nguyên, biên địa, lãnh hải và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cho Tàu cộng? Chúng ta hãy nghe Người dân (họ) giãi thích:
Chẳng tham ruộng cả ao liền,
Chỉ tham chiếc ghế chức quyền xa hoa.
Tham thêm dinh thự nguy nga,
Xe hơi bóng lộng, mượt mà gái tơ
Ðảng lo dân hết khù khờ,
Ðảng mà sơ hở, lơ mơ rơi đầu.
Ðảng bèn thưa với Ba Tàu,
Cầu xin chút thuốc nhiệm mầu đàn anh.
Cộng Tàu vốn lũ hôi tanh,
Xưa nay chúng vốn chuyên rành bán buôn:
- Dâng tao mấy vạn dặm vuông,
Cộng thêm lãnh hải, biên cương của mầy,
Bằng lòng trao đổi như vầy,
Cái đầu bây ở trên thây bây hoài.
Bài ca dao dưới đây rất thịnh hành ở Hà-Nội :
Hoan hô cộng sản Việt-Nam,
Cuối đời bán cả Giang san Nước Nhà.
Bản Giốc cảnh đẹp của ta,
Nay còn đâu nữa để mà ngắm trông.
Trường-Sa mù mịt biển đông,
Cả Hoàng-Sa nữa mất toong còn gì.
Mục Nam-Quan giữa biên thùy,
Nay lùi xa tắp, thấy gì nữa đâu.
Ngước trông mắt đẫm lệ sầu,
Suối Phi-Khanh đã bị Tàu cướp luôn.
Tổ Tiên oanh liệt quật cường,
Đảng nay dâng đất theo phường vong nô.
Mặc cho mất cả Cơ-Ðồ,
Chức quyền vững chắc, Tổ-Quốc cần gì!
Quốc-Hội toàn lũ ù lì,
Sử xanh, bia miệng khắc ghi muôn đời.
Tội tày trời, khó buông trôi,
Ðợi ngày quang phục, xử loài phản dân.
Tiếng thở dài sau đây của toàn dân Việt-Nam không những là tiếng thở dài ngao ngán, chán chường mà còn là tiếng uất hờn tiềm phục lữa hận:
Vua Hùng dựng nước dầy công,
Việt cộng dâng đất cầu mong sống còn.
Ông cha giữ nước sắc son,
Chiến công lừng lẫy giữ an cõi bờ.
Việt cộng qùy gối tôn thờ,
Cắt đất, dâng biển hững hờ Tổ Tông.
IV.- Chân-dung bọn lãnh-đạo CSVN dưới mắt người dân:
Trong mọi trường-hợp, người lãnh-đạo là người cầm vận-mệnh tổ-chức hay Quốc-gia. Trong đó thành-viên hay người dân tin tưởng, kính-phục, tri ân hay biếm nhẻ, khinh bạc hoặc oán hận tùy thuộc vào tài năng, đức độ và tấm lòng của họ đối với tổ chức hay đối với sinh mệnh Dân-tộc.Ta hãy nghe nhân-dân Việt-Nam nói về những lãnh-tụ đảng CSVN, những kẻ đã đưa dân Việt đến tận cùng lầm than thống-hận:
Đảng CSVN được sản sinh ra do nhu cầu thống trị. Giới thống trị cần phải chiếm đoạt tất cả những gì mà chúng chiếm đoạt được, bất kể là thứ gì: Từ cũ khoai, cái quần, đến thân xác phụ nữ; chúng phản trắc, lọc lừa và ăn cắp từ chiến công của người khác, từ viên thuốc của bệnh nhân, từ tập vỡ của học sinh đến cả pháp luật, thi văn và đĩ nhiên cũng không chừa cả niềm tin. Chúng ta hãy nghe người dân bố cáo tội ăn cắp của từ những đảng viên cộng sản cấp thấp nhất là xã ấp như đội viên, xã ủy, huyện ủy rồi đến những tên chóp bu cầm đầu đảng CSVN. Bất cứ đâu, trong xã hội cộng sản đều cũng rặt là những tên ăn cắp:
Xã viên ăn cắp cũ khoai,
Đội viên ăn cắp một vài ký phân.
Huyện ủy ăn cắp cái cân,
Tỉnh ủy trộm gỗ thủy lâm làm nhà,
Bộ đội ăn cắp quân xa
Công an ăn cắp thịt da của tù,
Pháp đình cưỡng lý, đoạt từ
Hiến Pháp đánh cắp Tự do, Nhân quyền
Nhà băng ăn cắp bạc tiền,
Nhà trường ăn cắp niềm tin nhi đồng.
Tướng lãnh ăn cắp chiến công,
Nhà thương ăn cắp tấm lòng lương y.
Lão Hồ ăn cắp văn thi,
Chỉ toàn một lũ: giống nòi khinh khi
A - Hồ-Chí-Minh:
Hồ-chí-Minh vừa gian ác, vừa dâm tặc lại vừa quá nhiều tham vọng bất chính, nên ngay từ năm 1954 khi cùng với thực dân Pháp cam tâm chia hai Nuớc Việt, Hồ chí Minh đã ấp ủ mộng thôn tính nốt Miền Nam Việt-Nam.Thôn tính nốt phần đất Tự-Do mà người Quốc Gia đã chiếm lại được từ tay thực dân Pháp không phải vì sự vẹn toàn của Tổ-quốc mà vì Hồ muốn dổi tên từ Sài-Gòn sang thành tên của y bằng máu của nhân-dân hai Miền. Qua văn nô Tố-Hữu chúng ta thấy được bộ mặt thật tham bạo ấy :
Ai đi Nam bộ
Tiền-giang – Hậu giang
Ai vô thành phố
Hồ-chí-Minh
Rực rỡ tên vàng
Tố-Hữu ( Ta đi tới 1954)
Quả-nhiên, khi cưỡng chiếm đuợc Sài-Gòn, đảng CSVN liền thi hành ngay niềm khao khát vô liêm sĩ của Hồ, thế là tên cái tên lịch sữ SÀI-GÒN đã bị chúng đổi thành Hồ-chí-Minh, và người dân phản kháng ngay:
Thương dân – dân lập miếu thờ,
Hại dân – dân đái ngập mồ triền miên .
Từ ngày đảng cộng cướp quyền,
Nhân dân phẫn hận, ba Miền nát tan,
Sài-gòn là của Việt-Nam,
Đảng cộng cưỡng hiếp làm Hồ-chí-Minh.
Vì chưa đủ sức - lặng thinh,
Chờ khi bỉ cực – chí Minh xuống hồ
Bản chất Hồ-chí-Minh đê tiện như thế nhưng CSVN ra sức tuyên-truyền bằng những thủ-đoạn xảo trá gian manh như tạo huyền thoại, đoạt chiếm tài-năng và uy-tín người khác, ép buộc mọi người tôn vinh và thờ cúng y như một vị Giáo-chủ. Nhưng Nhân-dân VN vẫn nhận-diện được chân tướng ty tiện và vô-luân, ác độc của Hồ:
Sinh chi thằng cáo, thằng Hồ,
Ðể em áo rách tô hô không quần!
Và đây người dân nhìn thấy rõ bộ mặt thật về nghệ thuật nói láo của Hồ:
Họ Hồ gợi ý cuội ta,
Thử xem nói láo, ai tài hơn ai!
Nghe Hồ miệng nói ngọt trơn,
Cuội vội quỳ xuống, xin tôn làm thầy.
Hay:
Cuội ơi sao Cuội ham chơi,
Ðể trâu phá lúa Ông Trời đánh cho.
Cuội rằng: Trời bị thu mua,
Con trâu bị bắt, đồng khô cháy vàng.
Nhớ hồi còn ở trong hang,
Ðêm đêm học tập nghề xưa“bác Hồ”.
Cuội than: Cuội thật không may,
Nghề riêng đã bị “bác Hồ” bợ luôn.
Giờ đây, Cuội cũng Dân-Tiên, (3)
Viết sách nói láo, đâu phiền đến ai.
Nói láo thì bác thật tài,
Lòng dân thù oán kiếp nào mới phai!
Toàn dân ra bảng cáo-trạng buộc tội Hồ chí Minh:
Bác đã về đây phá cửa nhà,
Ra tay đập nát lá cùng hoa.
Làm bao nguồn sống âm-u héo,
Làm vạn nẻo đường mất tiếng ca!
Đặc biệt diện mạo Hồ-Chí-Minh cũng được phụ-nữ Việt-Nam độc đáo mô-tả:
Quần em rách đáy lâu rồi,
Em ngồi, em để sự đời em ra.
Sự đời như mặt Hồ già,
Ðen như mõm chó, chém cha sự đời!
Hoặc:
Một năm hai thước vải sô,
Làm sao che kín thằng Hồ hở em!
Còn đây là tư-cách của Hồ:
Việt-Nam, có một ông già,
Râu dài tóc bạc, tên là Chí-Minh.
Ông hay uống rượu một mình,
Hể buồn, ông rũ Trường-Chinh uống cùng.
Say sưa ông nói lung tung:
Việt-Nam mình sẽ sánh bằng năm châu.
Này ông, chuyện ấy còn lâu!
Người dân khẳng định rằng chính Hồ chí Minh đem tai họa cho dân tộc:
Từ ngày ta có “Bác Hồ”,
Nhân-dân chẳng được ấm no ngày nào.
Hay:
Có Hồ thì đói nhăn răng,
Không Hồ dân sẽ cầm bằng ấm no.
Hồ-Chí-Minh và đảng CSVN thẳng tay đàn áp thô bạo quyền làm người; bọn chúng trắng trợn bóc lột máu xương, mồ hôi nước mắt, gây muôn ngàn thãm-nạn tai vạ cho nhân-dân VN. Nhưng chúng ép buộc người dân lúc nào cũng phải tuyên-xưng ca ngợi ơn chúng. Chúng ta hãy nghe quần chúng VN “ca ngợi ơn đảng “ cộng sản và Việt gian Hồ chí Minh:
Ðảng ta bán vải năm nay,
Mỗi người hai thước, phen nầy ấm thân.
Hoặc may áo, hoặc may quần,
Khéo may được một, nửa phân không thừa.
Tay cầm hai thước vải thô,
Lòng em hồ hởi ơn nhờ Ðảng ta.
May áo thì để vú ra,
Còn quần, thì để lá đa lõa lồ.
Vội vàng cất ảnh bác Hồ,
Bác mà thấy cái tô hô - Bác thèm!
Hay:
Hồ hỡi làm sao được hỡi Hồ,
Khoai sùng, sắn thối phải hoan hô.
Chỉ-tiêu vượt mức sao mà đói,
Phấn khởi rồi đây bới phẩn khô!
Và nhân dân đánh giá Đảng Cộng sản và Hồ chí Minh::
Công Bác như bãi tôi ngồi,
Nghĩa Ðảng như nước trong buồi chảy ra.
Nỗi khổ đau trầm thống của NDVN chính là bảng cáo trạng tố-cáo tội ác tày trời của Hồ-chí-Minh và đảng CSVN gian manh. Vì vậy, nhân dân ngán ngẫm:
Đĩ dại lâu nay vĩ đại rồi,
Chí Minh thì cũng chính mi thôi.
Bác đi đường ấy sao bi-đát,
Cách-mạng cái gì, mắc cạn thôi.
Và đây là những hận hờn phẫn nộcủa người dân đối với Hồ chí Minh và gian đảng cộng sản Việt nam:
Chính mi, con quỷ cáo già,
Chính mi, tay nhuốm máu đào dân ta.
Núi xương, sông máu dài cao,
Vì ai nếu chẳng quy vào Chí-Minh.
Trong khi CSVN thần tượng hóa lãnh-tụ. Chúng vẫn tin tưởng rằng quần chúng không hiểu biết những ty tiện, tội ác dâm đãng cùng tâm địa bán nước, hại dân nên vẫn còn sùng bái Hồ-Chí-Minh. Chúng sử dụng xác chết Hồ-Chí-Minh như một phương cách níu kéo quần chúng. Nhưng dân Việt đã biết rõ ràng cái bản mặt của Hồ và bè lũ CSVN, và họ đã khinh bỉ phẫn nộ:
Ba-Ðình có cái ụ to,
Trong ướp xác Hồ thành cáo đã lâu.
Cổng vào như cái lỗ cầu,
Xa xa chỉ thấy một màu tối thui.
Gặp nhau đã mãn nguyện rồi,
Bán trinh, bán máu; hát đời ấm no.
Hoặc:
Cũng lăng, cũng lính, cũng kèn đồng,
Xác chết da xương, tim óc không.
Nằm quan tài kính cho người rủa,
Xác nhắm mắt nghiền, chẳng dám trông.
Sở thú kề gần năm, bảy thước,
Thú người, người thú, nực cười không!
Dù đảng cộng sản Việt nam tận lực tuyên-truyền lừa bịp, nhưng người dân vẫn vanh vách biết rằng:
Chú Võ không còn nguyên Giáp nữa,
Bác Hồ chẳng có chí Minh đâu.
Và rồi người ta lại phải cuốc mồ cuốc mả Hồ-chí-Minh lên để nguyền rủa:
Nhớ ai như nhớ Bác Hồ,
Vừa chôn Bác xuống, muốn đào Bác lên.
Người dân cũng không quên nguyền rủa luôn cả tông đường tổ phụ của Hồ:
Ai là đạo cốt trên trời? – TIÊN.
Trong chùa tụng niệm đêm ngày là ai? – SƯ.
Nhà thờ ai giãng đạo hay? - CHA
Nước ta lãnh-đạo ai tài vô song?- BÁC HỒ
Ta chỉ cần ghép những trả lời thì có được :” TIÊN SƯ CHA BÁC HỒ”
Rồi thì, người dân chờ thời cơ để hành-động:
Di ảnh Bác Hồ lộng kiếng treo,
Nghĩa là liệng cống, cạnh chuồng heo.
Vứt mi xuống đó, quân muông cẩu,
Ðừng để chúng ông, giận đá bèo.
B- Bọn Trung-ương đảng CSVN:
Phạm-văn-Ðồng, Trường-Chinh (tức Đặng xuân Khu) ,Lê Duẫn, Võ nguyên Giáp, Lê Đức Thọ và v.v… là những tên tội-đồ kế Hồ-chí-Minh
Thằng Ðồng, thằng Duẫn, thằng Chinh. (4)
Tụi mầy có biết dân tình cho không?
Rau muống nửa bó một đồng,
Con ăn, bố nhịn, đau lòng thằng dân.(5)
Hay:
Ði chợ cầm nắm tiền Hồ,
Mua khoai ăn độn vẫn lo thiếu tiền.
Hai ngàn một ký gạo quèn,
Ðem về nấu cháo tráng men dạ dày.
Hoặc:
Cô gái đi chợ cầu kho,
Nắm mớ tiền Hồ mua được bó rau.
Rau già, rau héo chẳng sao,
Sâu Dân, mọt Nước mới rầu lòng em.
Cuộc sống tối tăm vô vọng, khiến Người Dân phải quyết liệt tố cáo Hồ chí Minh và băng đảng cộng sản chính là thủ phạm:
Tiền Hồ, tiền dỗm, rẻ rề,
Mặt Hồ, gian ác dê xồm,
Bắt dân khổ nhục,lồm cồm hoan hô.
Người dân cũng không quên bọn kể tội bọn đồ tể như: Võ nguyên Giáp, Võ-văn-Kiệt, Ðỗ Mười:
Ðứa nào làm khổ dân ta,
Một là thằng Duẫn, hai là thằng Khu.
Thằng Kiệt, thằng Giáp quản tù,
Thằng Mười Chủ-tịch, gật gù quanh năm.
Và:
Ai sinh tên Duẫn tên Duân,
Em đã không quần, cái áo cũng không.
Ai sinh tên Sắt, tên Ðồng,
Em đã mất chồng, mất cả thằng cu. (6)
Ai sinh tên khủ tên Khu,
Tố Cha, giết Mẹ bỏ tù toàn dân.
Hay:
Trường-Chinh, Lê-Duẫn, văn Ðồng,
Cả ba đồng lòng giết chết con tôi.
Bọn CSVN lúc nào cũng huênh hoang khoe khoang về đạo-đức lãnh-tụ chúng, chúng ta thử nghe người dân mô tả “đạo-đức” tên Lê-Duẫn là kẻ giữ chức quyền cao nhất và lâu nhất trong thời-gian phỉ-quyền Việt-cộng đày đọa dân ta:
Phủ Chủ-tịch có con dê,
Làm bao cán-bộ vỗ về mệt công.
“Dê luẫn” quẫn tránh đám đông,
Tối ngày tìm húc cái lồng không “rê”
Và nhân dân VN ra bản án cho gian quyền ác đảng cộng sản Việt Nam::
Thằng Chinh, thằng Duẫn, thằng Ðồng,
Ba thằng cùng béo, cạo lông thằng nào?
Làm lông thằng Duẫn cho tao!
-Thưa hai con vợ xin tha đợt nầy.
-Thế còn Ðồng vẩu thì sao?
-Vợ còn đau nặng, sớm chiều lo chăm.
-Thôi thì Chinh lợn khỏi bàn,
Mau mau cho nó đi thăm thằng Hồ.
Vì chưa đủ sức nên người dân phải đành âm thầm chịu đựng và ngấm ngầm phản kháng:
Hỡi thằng “Du-ẫn” trên cao,
Làm sao hiểu được chúng tao hỡi mầy!
Sau khi Hồ-Chí-Minh chết, bọn đầu lãnh trung-ương đảng CSVN vội vàng chia bè kết nhóm giành nhau độc quyền thống trị:
Ðảng là mẹ, Bác là cha,
Từ ngày Bác chết, đảng ta góa chồng.
Tên Chinh, tên Duẫn, tên Ðồng,
Cả ba đều muốn làm chồng đảng ta!
Vì đảng cộng sản Việt Nam là băng đảng Mafia nên chúng chỉ phân chia ban phát quyền lực, quyền lợi cho thành viên băng nhóm của chúng. Nhưng óai oăm của lịch sử là cộng sản Việt Nam thành công khi tranh đọat chính quyền thì chúng phải lợi dụng lòng yêu nước, phải nhân danh giải phóng dân tộc, phải xây dựng cái gọi là Dân tộc, dân chủ. Trong đọan đường hình thành xây dựng đảng Mafia dỏ, chúng cũng phải lừa gạt lòng ái quốc của nhân dân nên không thể không xây dựng các cơ cấu tổ chức y như một chính quyền như những chính quyền thông thuờng của một quốc gia có chủ quyền. Thực hiện xong sự cưỡng chiếm lãnh thổ, áp đặt xong nền cai trị chuyên chế khắc nghiệt, đảng CSVN lột chiếc mặt nạ vì dân tộc, hiện nguyên hình là một tổ chức băng đảng tội phạm.Khi chiếc mặt nạ bị rơi, đảng CSVN phải lộ rõ bộ mật thật của một đảng gian ác lưu manh. Vì vậy để cứu đảng đuợc sống còn, đảng CSVN liền quay sang lọai bỏ những người vì lòng ái quốc mà trót nhấm lẩn theo về với chúng, chiến đấu vì những khẩu hiệu do chúng đề ra. Bây giờ đảng cộng sản không cần họ nữa , và sau đây là tình cảnh của những người phí bỏ cả tuổi thanh xuân do một thời nhầm lỡ:
Đầu đường, Đại tá vá xe
Cuối đuờng, Trung tá bán chè đỗ đen
Thiếu tá thì bán dầu đèn
Còn ông Đại úy thổi kèn đám ma.
Bản-chất cộng-sản là tham ác và tàn bạo. Nên nếu chúng có phải đoàn kết bên nhau là chỉ vì nhu cầu quyền lợi, và cũng vì quyền lợi, chúng không nuơng tay tàn ác, xâu xé, đày đọa lẫn nhau. Bởi thế, nên khi thì chúng ra sức ca ngợi đưa tên Việt-gian chỉ điễm Võ nguyên Giáp lên tận mây xanh, đến khi vì tranh chấp quyền lực thì thẳng tay hạ bệ từ một đại tướng xuống làm chức lo chuyện sinh đẻ của đàn bà, làm nhục nhau không chút niệm tình:
Ngày xưa Võ Giáp cầm quân, (7)
Ngày nay Võ Giáp cầm quần chị em.
Hay:
Ngày xưa Võ Giáp bịt đồn,
Ngày nay Võ Giáp bịt l... chị em
Người dân tưởng tượng ra vỡ kịch cuộc triều kiến giữa Vua Hùng và Võ nguyên Giáp như sau :
- Hỏi rằng thằng Giáp ở đâu?
- Muôn tâu: Hắn bận đi khâu cửa mình!
- Sao không giữ nước non mình,
Mà đi làm chuyện linh tinh thế nầy?
- Muôn tâu: Là ý quan thầy,
Bắc kinh cho hắn leo cây bôi dầu.
Điện biên thắng Pháp của Tàu,
Thằng Giáp tà lọt đứng hầu Trần Canh
Cộng nô bán nước rành rành
Sử xanh ô nhục hôi tanh cộng Hồ.
Và rồi thân phận Nguyễn-chí-Thanh cũng không khác gì Võ nguyên giáp:
Hoan hô anh Nguyễn Chí-Thanh, (8)
Anh về phân bắc, phân xanh đầy chuồng
Nắm được quyền lực, bọn lãnh tụ không những khống chế lương dân thấp cổ bé miệng chiếm đoạt xã hội hầu thỏa-mãn hoang-dâm thú tính, Chúng còn tìm cách cắm sừng lên đầu bọn “đồng-chí” của chúng:
Phạm-huy-Thông, Phạm-huy-Thông, (9)
Giáo-sư nổi tiếng tô hồng vẻ hoa.
Một tay bóp méo sử nhà,
Một tay nắn bóp lệnh bà Tướng công.
Tướng bà dám cắm sừng chồng,
Bởi chưng biết thóp Tướng ông nhập nhèm.
Chồng ăn chả, vợ ăn nem,
Thôi thì cùng cảnh lèm bèm như nhau.
Tướng ông trong bụng rất đau,
Nhưng Thông lại có đở đầu quan trên.
Mưu sâu là chước lặng yên,
Ðội mũ đạo-đức, đeo kiềng nhân-luân.
Nghĩ rằng việc ở trong “quần”,
Nào ngờ dân đã xa gần đều hay.
Khen tài Thông:“đúng là Tây!”
Người xưa có nói: “nhàn cư vi bất thiện”, quả vậy, bọn đầu lĩnh từ Hồ-chí-Minh đến những tên cận thần của y thảy đều là bọn vô lại. Nhờ Nga Xô và Tàu cộng đặt đảng cộng sản Việt Nam lên trên chiếc ghế quyền lực với mục đích duy nhất là có đủ quyền hành lẫn sức mạnh để bán nước và tiêu diệt các lực lượng yêu nước phản kháng. Do đó tất cả thời gian còn lại là bọn vô lại cộng sản tính đến chuyện hưởng thụ và dâm lọan.
Bọn chúng tưởng với bức màn sắt, với bàn tay bạo lực sẳn sàng vấy máu, nên cuộc sống hoang dâm hưởng lạc vẫn mãi nằm trong bí mật để chúng vẫn được tự:”xưng Thánh, xưng Tướng”. Nhưng người dân đã hiểu hết trong thâm cung nhơ bẩn đồi trụy của chúng:
Lê-Duẫn ba vợ, ba nhà,
Mỗi người riêng ở một tòa khang trang.
Xét trong đảng của họ Trư (10)
Trai thì nhiều vợ, gái dư nhân tình.
Thọ, Ðồng hai vợ đình huỳnh (11) Giáp Dũng nhân tình nhân ngãi lăng nhăng (12)
Xuân Thủy hết Bình lại Hằng (13)
Trần-Ðộ, thi-Ðịnh nhập nhằng với nhau.
Vợ Liêm rước Côn cửa sau (14)
Bách lấy vợ trẻ, bỏ mau vợ già (15)
Chân chơi Gia Tường cả nhà (16)
Xâu con lẫn mẹ, chẳng tha người nào
Danh Tuyên dê cụ làm sao (17)
Gọi nhân viên hiếp giữa bàn buya-rô
Ðến như “đạo đức” họ Hồ,
Thế mà hắn cũng lắm cô nhân tình.
Cận, Thập, Mỹ... nên hiển vinh (18)
Cũng vì được hắn làm tình nhiều phen.
Dê theo đường cũ đã quen,
Từ trên xuống dưới lèm nhèm như nhau.
Và người dân ngao ngán:
Chủ-tịch nằm ngủ trong lăng,
Trung-ương nghỉ mát, lăng xăng nước ngoài.
Phu-nhân buôn lậu dài dài,
Cô chiêu, cậu ấm nước ngoài yên thân.
Chung quy, chỉ chết thằng dân!
C.- Cán-bộ CSVN:
Trước hết chúng ta hãy nghe người bằng vào kinh nghiệm để cảnh giác;
Con ơi nhớ lấy câu nầy,
Cướp đêm là giặc, cướp ngày kiễm tra.
Còn đây là “phẫm chất” của cái tập đoàn quyền lực, là bàn tay sắt của đảng cộng sản có tên gọi là “Công-An Nhân-Dân”:
Kìa xem đồng chí công an,
Đánh cướp thì nhát, đánh dân thì tài.
Những tên mặt dầy gọi là công an nhân dân, miệng thì luôn luôn nói rằng vì dân trừ bạo; nhưng thực chất là một lủ côn đồ, chuyên bốc lột, vơ vét. Người có chút máu mặt thì phải đóng tiền , người nghèo khó thì phải bao cho chúng ăn nhậu:
Trên đời hỏi có sợ ai ?
Sợ xe cảnh sát đậu dai suốt ngày
Đậu dai thì phải lai rai
Công an ăn nhậu dài dài với dân
Nhậu rồi mặt thớt đỏ rần
Ai trả thì trả, chúng cần no say
Còn đây là ngành hỏa xa cộng sản dưới thời của tên Hà đăng Ấn:
Cục ta có bác Hà Đăng,
Ấn cho tàu chạy băng băng như rùa
Chúng ta hãy tiếp tục nghe người dân mô tả phẩm chất bất lương của cán binh, cán bộ đảng viên cộng sản Việt Nam:
Miền Bắc toàn những thằng điên,
Trong túi có tiền cứ bảo rằng không.
Suốt ngày chúng chỉ chạy rông,
Chúng muốn tất cả, nhưng không làm gì.
Bản chất gian ác, ngu lì,
Bao nhiêu nghị-quyết chúng thì thông qua.
Miền Trung toàn đứa du-côn,
Hống hách cửa trước, chui lòn cửa sau.
Trọn đời tơ tưởng sang giàu,
Chúng quỳ đúng chổ, chúng câu đúng người.
Nghị quyết tráo trở mười mươi,
Hung hăng, bợ đở tùy nơi chúng cần.
Miền Nam toàn những thằng liều,
Chúng ăn như phá, lại nhiều máu điên.
Trong túi muốn thật nhiều tiền,
Chúng có một vợ, chúng liền thích hai.
Lưu-manh hiếp đáp công khai,
Suốt ngày chúng cứ lai rai nhậu hoài.
Nghị quyết chúng rõ hơn ai,
Nhưng vì ham bạc nên sai cũng làm.
Ðể việc bóc lột được hữu hiệu, Cộng sản phát-động chính sách thi đua và người dân chiêm nghiệm về sự thi đua ấy như sau:
Làm ngày không đủ,
Tranh thủ làm đêm,
Làm luôn Chủ nhật.
Khắc phục trời nắng,
Chiến thắng trời mưa.
Bỏ giấc ngủ trưa,
Làm thêm giờ nghỉ .
Đày ải, bóc lột tàn tệ người dân đến tận cùng, cộng sản Việt nam vẫn chưa hài lòng hả dạ, chúng bắt buộc người dân phải thực hiện ba khoan, dưới sự suy nghỉ của cộng sản thì người dân sinh ra để làm tôi đòi nô lệ cho cộng sản và chỉ có đảng viên cộng sản mới được biết thế nào là hạnh phúc tình yêu đôi lứa, hạnh phúc gia đình :
Chưa yêu thì khoan yêu,
Yêu rồi thì khoan cưới,
Lỡ cưới thì khoan mang thai
Tàn ác hơn là nếu đã lỡ mang thai thì phải nạo thai! Chúng ta hãy nghe nguời dân chỉ vào bản mặt dâm ác của Hồ và đồng bọn để hỏi tội:
Hỏi rằng bác uống thuốc chi,
Mà sao chuyện ấy tù tì mỗi đêm.
Dù bao nhiêu - bác cũng thèm,
Bác dư nhựa sống, lem nhem đàn bà.
Bác rằng: đạo đức đảng ta.
Thai nhi với rượu trộn pha thuốc tàu,
Tao còn phải nhớ thuộc làu:
Đừng quên một buổi, một đầu hài-nhi,
Cũng đừng sợ tiếng thị-phi
Đảng viên cao cấp – lập kỳ công to,
Này dân, đừng có so đo,
Phải đâu chỉ có mặt mo già Hồ
Mà toàn lũ cộng côn đồ
Thằng nào cũng có cả bồ gái tơ.
Thực chất chính sách thi đua chỉ là phương cách bóc lột mồ hôi và máu lệ người dân cho đời sống chúng được giàu sang sung túc:
Thi đua làm một thành hai,
Ðể thằng cán-bộ mua đài, sắm xe.
Thi đua làm một thành ba,
Ðể thằng cán-bộ sửa nhà lót sân.
Thi đua làm một thành tư,
Ðể thằng cán bộ tiền dư, thóc thừa.
Thi đua làm một thành năm
Ðể thằng cán bộ vừa nằm vừa ăn.
Hay:
Công-nhân giai-cấp tiền-phong,
Ăn đói vác nặng, lưng còng mắt hoa.
Một người làm việc bằng ba,
Ðể cho lãnh đạo xây nhà xây lăng.
Mọi người thi đua thật hăng,
Ðể cho lãnh đạo ăn nằm thảnh thơi.
Công nhân vợ ốm con côi,
Lãnh-đạo nhà gác, xe hơi bộn bề
Bao giờ cho hết trò hề!
Và đây là bản mặt của đảng viên CSVN, một bọn người chuyên môn trấn áp bóc lột, nhưng miệng bô bô rằng cán bộ cộng sản luôn luôn :“Khổ trước dân và vui sau dân”:
Nhà nào giàu bằng nhà cán bộ,
Hộ nào sang bằng hộ đảng viên.
Dân tình đói khổ đảo diên,
Công an mặc sức vung tiền vui chơi
Đây là cuộc sống của người công nhân, giai cấp mà CSVN lường gạt gọi là: Giai cấp tiên tiến, là chủ nhân ông”:
Lương chồng, lương vợ, lương con,
Cộng ba lương ấy, mua toàn cá ươn,
Công nhân được xóc cùng xương,
Dân ta đói rách bởi phường cộng gian.
Việt cộng thúc ép, bó buộc, bóc lột biến người dân thành nô dân để thỏa mãn túi tham bất lương không đáy. Dưới đây là một hoạt cảnh xếp hàng mua lương thực để thấy cái ấm no CSVN dành cho nô dân:
Ðuôi dài trăm thước,
Chuyên ăn bo bo,
Chẳng mấy khi no,
Là gì đố biết ?
Bo bo là một loại ngũ cốc làm lương thực cho gia-súc. Bọn lý thuyết gia Việt cộng muốn ”vô mà không ra“ và nô dân phải:”làm thật nhiều, ăn chẳng bao nhiêu“. Ðể bù lại “khoảng thất thoát ngoại-giao” khi Phạm-văn-Ðồng Thủ tướng VC phải mua một nhà máy đã cũ không còn sử dụng với giá :” tinh thần hỗ tương ” cao gấp hơn hai lần do Pháp đề nghị cũng với loại máy như thế nhưng còn mới nguyên, công xuất mạnh hơn. Ðáp lại tấm “thịnh tình“ ấy và với tinh thần :”Chia cơm nhường áo“, BàThủ tướng Gandi của Ấn-Ðộ “viện-trợ ” bo bo cứu đói cho “người anh em anh hùng“. Và đây là cảm giác của người “anh-hùng”.
Ai ơi ăn độn bo bo,
Của thằng Ấn-Ðộ thí cho...hãi hùng!
V- Bản chất gian trá lưu manh của CSVN :
Cộng sản thiết lập chế độ chuyên chính tuyệt đối, tất cả mọi quyền sống của nhân dân đều bị tuyệt đối cấm chỉ; nhưng chúng vẫn lu loa về quyền tư do bầu cử, trò hề lu loa đó đã bị vạch mặt :
Nước ta bầu cử tụ do,
Lọc qua ,lừa lại toàn là Marx – Lê (Lenine)
Và không những chỉ chuyện bầu cử, cộng sản lu loa gian xảo nhất trong tất cả mọi sinh hoạt thường nhật;
Miệng nói hòa-bình ,
Tay rình đánh trộm.
Hay :
Diêm Thống-nhất,
Giá không nhất thống
Và :
Củ Chi là cái củ gì,
Củ khoai chẳng phải, củ mì thì không.
Củ-Chi địa đạo tầm vông,
Là nơi đảng bịp, bắt dân công làm.
Lập nên ổ chuột trong hang,
Dọa dân ngoại quốc làng chàng đến chơi.
Nhân dân Việt Nam xem đảng cộng sản chỉ là những tên cờ bạc bịp:
Ðảng ngồi, đảng lắc bầu cua,
Mánh mung, chôm chĩa chẳng thua cửa nào.
Quá cay đắng, người dân chỉ thẳng vào mặt bọn cán bộ cộng sản hỏi::
Hỡi phường cán bộ gian tham,
Sao chẳng chịu làm, chỉ chực ăn không?
Hay:
Chú phỉnh tôi hoài, sao chính phủ?
Bố cạn tiền rồi, cán-bộ ơi!
CSVN thực chất là một bọn “sơn lâm thảo khấu ” vô lại. Ðầu óc chúng, chuyên tính toan cướp giựt, hiếp đáp, lừa đảo. Vì vậy, chúng phải đeo bám vào cái gọi là chủ thuyết cộng-sản của Kark Marx, Lenine, và Mao trạch-Ðông. Chúng xem đó là kinh điển lý luận, lá bùa hộ mạng cho đảng CSVN, là lập trường, là phương pháp thực hiện sự răn đe, huấn dụ nhằm biến bọn cán bộ thành những con ác quỷ, thành những chiếc máy chém lưu động, cho sự tha hóa, đọa đày ép buộc người dân thành những tên nô lệ mãn kiếp; muôn đời phải đê đầu bái phục bọn đầu nậu Trung-Ương đảng. Biến Việt-Nam thành địa ngục giữa trần gian để chúng dể bề thao túng hút xương máu người dân:
Ngang lưng thì thắt lập-trường,
Ðầu đội chính-sách, vai quàng chủ trương.
Mở miệng là nói huyên thuyên,
Hết niệm lão Mác, lại truyền kinh Mao.
Ðầu toàn là chuyện tào lao,
Ðao to búa lớn, trăng sao hãi hùng.
Hoặc:
Trên thì Mác xít,
Giữa thì bưng bít,
Dưới thì bợ đít.
Họp hành qua quýt.
Tiêu chuẫn chê ít,
Thấy tiền mắt tít!
Bằng kinh-nghiệm đau thương, ê chề, nên khi ai có những “ đặc-tính “ sau đây thì người ta biết đích thị đó là Việt-cộng :
- Bịp bợm, bắt bớ, bưng bít.
Và:
Việt Cộng là:
Nói có sách,
Mách có chứng.(19)
Ðứng có chỗ
Ðỗ có nơi .
Ngồi có kiểu, (20)
Tiểu có bô, (21)
Hô có nhịp. (22)
Bịp có tiếng,
Diện rất quê.
Chê rất giõi,
Ai cũng thằng.
Nói rất dai,
Khai rất kỹ.
Trên chè lá,
Dưới đấu đá. (23)
Hay:
- Áo trắng quần đen,
trông giống con sen:
Nhân-viên Hà-Nội.
- Dép râu nón cối,
Ăn gian nói dối:
Ấy cán-bộ cao.
Và:
Ăn tranh thủ,
Ngủ khẩn trương.
Học bình thường,
Chơi xả láng.
Hoặc :
-Làm thì láo, báo cáo thì hay.
-Vượt chỉ tiêu: làm điêu, nói dối
Hay :
Dì dí dì di,
Cái chi cũng lấy.
Và đây chúng ta hãy xem một ngày“ lao-động vinh quang“ của cán binh, cán bộ cộng sản:
Nấu cơm,
Bơm xe,
Nghe thời tiết,
Liếc đồng-hồ.
Thồ gạo,
Cạo râu,
Xâu dép lốp.
Sở dĩ bọn cán bộ “lao động“ như thế vì chỉ số lương của chúng được định vào thành quả và thái độ lao động như sau:
Hai trăm: ngồi phán,
Trăm tám: ngồi nghe.
Tranh nhà, giành xe:
Là anh trăm rưỡi.
Long tong tất tưởi:
Là bác chín lăm.
Ðấm đá lăng-nhăng:
Là anh sáu chục.
Trong nhà lục đục:
Là chị bốn lăm.
Làm chẳng đủ ăn:
Là cô ba sáu.
Ðói ăn hau háu:
Là chú hăm hai.
Tay làm hàm nhai:
Xã viên nông-nghiệp.
Tóm lại,Việt-cọng có những đặc điễm sau:
-Vồn vã,
-Vờ-vẩn,
- vờ-vịt,
- vênh váo,
- vặn vẹo,
- Vá víu,
- vấn vương,
- vất vưởng.
Và:
Vội vào :
- vơ vét ,
- Về !
Để rồi:
Ðói đồ,
- đến đợi
- đội đi.
Hoặc:
Thẳng thắn thì thiệt thòi,
Lếu láo lại lên lương (lên lon).
Kể từ năm 1954 khi cộng-sản lập được ngụy quyền ở Miền Bắc, đến cuối tháng 4 năm 1975 cộng-sản áp đặt bạo quyền trên toàn cỏi Quê-Hương cho mãi đến hôm nay. Sau bao nhiêu năm quằn quại dưới ách thống-trị đẫm máu, nguời Việt-Nam rút ra được một quy luật mà quy luật ấy như là một định-lý toán học không bao giờ thay đổi, đó là:
Không phản quốc, không tàn ác dã man, không tham ô nhũng lạm, không gian dối, lừa phỉnh, không dâm loan tham ác, không dua nịnh đê hèn thì không phải là cộng-sản! Bởi thế nên ngay cả cái xác chết của têm trùm CSVN là Hồ-chí Minh – dù là một tên vô lại với đầy đủ các “cộng sản tính” bọn thủ hạ vẫn cố che đậy những vết chàm nhơ bẩn và khoát cho tên tội đồ những “tính người” mà y không bao giờ có– (vì nếu có thì Hồ-chí-Minh đâu phải là CSVN). Mặc dù theo cái gọi là “di-chúc Hồ-chí-Minh” thì lão muốn được chôn nhưng bọn phỉ quyền lại cho xây lăng, ướp xác lão vì chúng xem cái thây thối tha đó như là một thứ linh ngải. Và dĩ nhiên đảng cộng phỉ không lừa gạt đuợc NDVN:
Lão Hồ nằm bẹp trong lăng,
Lâu lâu lão lại nghiến răng trợn trừng,
Máu sôi lửa hận bừng bừng,
Gian dâm, phản quốc - tao từng kinh qua.
Nào có tư tưởng trong ta,
Có chăng thì cũng những gì chĩa chôm.
Tại sao bây cứ lắm mồm,
Để cho dân chúng muốn bờm đầu tao.
Nếu còn chút nghĩa thuở nào,
Xin chôn tao xuống cho tao được nhờ.
VI- Giai-cấp trong xã-hội Cộng-sản :
Kẻ bất lương thường nhân-danh lương thiện; bọn CSVN thường nhân-danh giai cấp đói nghèo thấp hèn của xã-hội. Khi phát động và tiến hành cái gọi là “Ðấu-tranh giai cấp“ chúng hứa hẹn xã hội mới do chúng lãnh-đạo sẽ là thiên-đường Cộng-sản; trong đó mọi người đều bình đẳng và không có cảnh người bóc lột người. Nhưng hãy xem VC phân-chia quyền lợi ngay trong chính hàng ngũ chúng với nhau như. Tuy nhiên, chúng ta cần phải hiểu rằng: Mục-tiêu tối hậu CSVN là quyền-lực. Từ quyền lực, chúng mới có đủ điều kiện để chiếm đoạt vật chất mà hưỡng thụ. Bởi vậy mới có đại táo, trung táo, tiểu táo, đặc táo như sau:
Tôn-Ðản là chợ vua quan,
Vân-hồ là chợ trung gian ninh thần.
Ðồng Xuân là chợ của dân,
Hàng bè là chợ công-nhân anh hùng.
Hay:
Cán bộ cao ăn cung cấp,
Cán bộ thấp ăn chợ đen,
Cán bộ quèn ăn cổng hậu.
Và cái được gọi là giai cấp anh hùng, chủ nhân ông đất nuớc phải âm thầm tự an ủi mình:
Ăn đại táo (Cơm tập thể) (24)
Ở dại gia (nhà tập thể)
Đi đại xa (xe bus hoặc xe tải)
Làm đại khái
Bởi vậy, nên những chuẫn mực để chọn chồng của các cô gái Hà nội trước 1975 là:
Một yêu anh có Peugeot (xe đạp Pháp)
Hai yêu anh có Seiko đàng hoàng (25)
Ba yêu anh có đồ sang
Bốn yêu hộ khẩu rõ ràng thủ đô
Năm yêu không có bà bô (mẹ )
Sáu yêu Văn Điển ông bô đem về (cửa hàng cao cấp)
Bảy yêu lái xe nhà nghề
Tám yêu phe phẩy, lè phè, nhởn nhơ
Chín yêu lắm bạc, tiền dư
Mười yêu dù lớn, dù vừa che thân (có phe cánh)
Với em tiêu chuẫn phu quân
Rõ ràng cho xứng mười phân vẹn mười
Bà con ơi xin chớ có cười
(Theo Việt Thường)
Và sau năm 1975 là :
Một thương, mặc áo mây ô,
Hai thương, anh có cá khô để dành.
Ba thương rửa mặc bằng khăn,
Bốn thương anh đã đánh răng hằng ngày.
Năm thương, Anh được cơ may,
Sáu thương, anh đuợc chuyển vô thành Hồ Bảy thương anh có “xai-cô“,
Tám thương, anh có“xe-rim”màu hồng. (26)
Chín thương, hộ khẩu đàng hoàng ,
Mười thương, chiếm được nhà sang hai tầng.
VII- Tội ác của Ðảng Việt-cộng đối với Nhân-dân Việt-Nam:
Ðể dể bề đặt ách thống-trị, lừa bịp nhân-dân, bọn CSVN luôn rêu rao tinh thần: “Ðộc-Lập Dân-Tộc”. Nhưng thực-chất, chỉ phục vụ quyền lợi cho đảng Cộng-sản của chúng.
Ðảng cung cấp quyền lực, quyền lợi cho đảng viên. Ðể chiếc ghế quyền lực được bền lâu, chúng phải dựa vào ngoại bang, phải phục vụ cho ngoại bang, và phải cầu xin ngoại bang bảo vệ. Do đó, chúng phải thẳng tay tiêu diệt đạo lý, phong hóa dân tộc, đàn áp tôn giáo; xúc phạm các quyền tự-do căn bản của người dân, làm bần cùng hóa, ngu hóa và hèn hóa Dân-tộc:
Mấy đời bánh đúc có xương.
Mấy đời Cộng-sản mà thương dân lành
.
A.- Nô-lệ ngoại bang:
Là con dân Nước Việt, ai cũng phải hết lòng thờ kính Ðức Quốc-tổ Hùng vương. Từ Phong-Châu, Vua Hùng dựng Nuớc và Tiền nhân dũng-liệt Bắc bình, Nam tiến để chúng ta có được một giãi giang-sơn cẫm tú. Mãi đến hôm nay bọn CSVN chưa có bất cứ công trình, tượng đài nào để vinh danh ghi nhớ công ơn Tổ Tiên. Thế nhưng, ngay giữa Hà-Nội, chúng dựng tượng Lenine để tôn thờ.
Hãy nghe người dân căm-hận châm biếm:
Vua Hùng chầu chực Ba-đình,
Chờ xin giấp phép đi về Phong-Châu.
Lê-nin nheo mắt vễnh râu,
Hỏi ông cái việc đầu tiên là gì?
Vua Hùng quay hỏi Thấn Quy, (27)
Thần rùa bèn đáp ấy là tiền đâu!
HCM cùng với bọn gian nhân hợp đảng suy tôn thần thánh hóa Lenine, chúng tuyên truyền rằng: Chỉ có chủ nghĩa Cộng-sản mới đưa Dân tộc đến Tự-Do Hạnh-Phúc. Nhưng sau hơn bảy thập niên, Nga-Xô với tư cách là nước lãnh-đạo khối Cộng-sản toàn cầu đã bị sụp đổ và người dân nhận định:
Lê-Nin quê ở nước Nga,
Cớ sao lại đứng vườn hoa nước nầy.
Ông vênh mặt, ông vễnh râu:
- Tự-do, Hạnh-phúc lũ mầy còn xa.
Kìa xem gương ở nước Nga,
Bảy mươi năm lẻ có ra thế nào.
Ðể giữ vững ngôi vương bá chư hầu trong thời đại mới. Tập-đoàn tội ác CSVN bất chấp liêm sĩ tối thiểu, cúi đầu khom lưng, gân cổ thét gào tuyên xưng ngưỡng mộ những điều phịa đặt tưởng tượng tại “Mẫu-Quốc Nga sô viết ” của chúng. Trước những láo khoét xiễm nịnh ấy người dân bình tĩnh nhẹ nhàng nhưng cương quyết vạch trần sự thật ra rằng: Thiên Ðường cao ngất mà CSVN ngưỡng vọng, ai muốn biết thế nào là bẽ bàng thì xin hãy đến để biết:
Chưa đi, chưa biết nước Nga,
Ði rồi mới biết ở nhà vẫn hơn.
Khi vào thuế đánh lu bù,
Khi ra chiêu đãi no đòn dùi cui.
B.- Tàn-sát :
1/ Nhận xét tổng quát :
Sau khi cẩn thận phân-tích hai chế độ tàn ác đã phạm tội diệt chủng và chống nhân loại, là chế độ phát xít Đức và chế độ cộng-sản các học giả đãđi đến kết luận như sau:
a-Phát xít Đức nhân danh quyền lợi dân-tộc của họ để giết người ngoại chủng.
b-Cộng-sản nhân danh quyền lợi của nhân lọai để chỉ tàn sát không nương tay đối với đồng bào đồng chủng của họ.
2/ Tôn-giáo :
a/- Phật-giáo :
Chùa chiền vắng bóng Tăng Ni,
Thay vào một lũ, rặc ri già Hồ.
Báo nhau sau tiếng Nam Mô,
Công-an vặn vẹo Ni Cô trong chùa.
Sư cụ tu đã già nua,
Phải khai chịu tội, tu lừa gạt dân.
Làng trên xóm dưới xa gần,
Họp nghe tòa án Nhân-dân xử Thầy.
“Phước-Sương, công-đức” từ đây,
Phải đem nộp đảng, chùa Thầy.Thầy lo.
Từ tâm, gỏ mỏ tụng kinh,
Tiếng chuông ai oán gọi linh giặc Hồ.
Ðảng mi tòan lũ côn đồ,
Tính toan mưu kế, cướp vồ của dân.
Hay:
Tượng Phật bơ vơ bên vệ đá,
Giữa đường lũ quỷ đứng nghênh-ngang.
b.- Thiên-Chúa giáo:
Ðôi ta đi lễ nhà thờ,
Cha quỳ lạy Chúa, Công-an đứng rình.
Giáo đường vắng tiếng cầu kinh,
Ồn ào trẻ nít Chính-mi già Hồ.
Hay :
Ðồng-sĩ-Nguyên, Ðồng-sĩ-Nguyên, (28)
Theo Hồ, ngươi giết con Chiên Ba-Làng.
Tội ác ngươi nhất thế-gian,
Trẻ thơ cũng bắn, già làng cũng đâm.
Cỏ cây cũng phải khóc thầm,
Núi sông cũng phải một lần phong-ba.
Ðảng ngươi đảng lũ Tàu Nga,
Cộng ngươi: cộng máu cộng hòa thịt xương!
Các ngươi: một lũ bất lương,
Cùng quân ăn cướp, cùng phường lưu manh.
Ðảng ngươi tội ác rành rành,
Chứng nhân còn đó, sử xanh Ðất Trời.
Lũ ngươi đền tội đời đời!
c-/ Ðồng bào sắc tộc thiểu số :
Ðứng trên Cổng trời, nhìn về Quảng Ba (29)
Tưởng mình cưởi gió ngắm trần gian.
Ðẹp thay Ðất Nước bạc vàng,
Ðứng đây sao thấy vô vàn thân thương.
Sa-Mu san sát bên đường,
Cảnh sao hùng vĩ, ngựa giương bờm dài.
Ðãi Lầu vàng bạc hoa cài,
Bản Mèo đứng đó nhìn ai mà buồn.
Phải chăng bản nhớ người thương?
Hà-giang,Mèo vạc máu xương đỏ ngầu.
Hồ chí-Minh cùng với Mao Tàu,
Giết hơn một vạn kể đâu giống nòi.
Mẹ hiền Tổ-Quốùc đâu rồi,
Dù là thiểu số cũng người Việt-Nam.
Cũng máu đỏ, cũng da vàng,
Búa liềm Hồ cáo, Bản làng tang thương.
Sông Nho Quế, máu còn vương,
Người Kinh,ngườiThượng khắc xương ghi lòng
Ðoàn kết chống Cộng đến cùng,
Tội ác Hồ cáo – Lạc-Hồng chớ quên!
C-/ Làm đời sống nhân-dân tối tăm vô vọng:
Ðây là lời ta thán của đồng-bào VN đang phải sống căm hờn tủi nhục trong xã hội bạc ác do đảng CSVN thống trị :
Em là Thanh-Niên Xung-Phong,
Ðắp đường, tải đạn long đong tháng ngày.
Ðảng nuôi hai buổi mỗi ngày.
Cơm độn ba bát, muối đầy lòng tay.
Áo quần hai bộ đổi thay,
Mỗi năm đi phép mười ngày...”có lương“.
Cho nên chẳng có người thương,
Xuân tình chợt gặp giữa đường với nhau.
Nói ra bao kể khổ đau,
Thời gian thấm thoắt bước mau về già.
Sốt rừng da mái mắt lòa,
Ðảng cho giãi ngũ về nhà ăn rơm.
Tuổi xuân chôn chốn Trường-sơn,
Nhiều cô thai nạo, vứt chôn cây rừng.
Về làng chân bước ngập ngừng,
Tương-lai mờ mịt gối chùng, lưng cong.
Biết khôn, đã chót vào tròng!
Hay:
Chồng bị bắt lính phương xa,
Mẹ cha cải tạo chết già rừng sâu.
Ban ngày thay kiếp ngựa trâu,
Ban đêm làm nệm để hầu quan viên.
Ðảng ủy, chủ-tịch ưu-tiên,
Trưởng Công-an xã tiếp liền theo sau.
Ơn Ðảng, nghĩa Bác dày sâu,
Nhân-dân thành đĩ, thành trâu hết rồi.
Thấu tình chăng hỡi Ðất Trời!
Họ căm hờn Việt cộng đã dã tâm cướp đoạt tài sản nhu yếu cuối cùng:
Rủ nhau đi chợ Cống chiều,
Mua được cái váy toàn tiền Ðông-Dương.
Trở về đến phố chợ Chương,
Công-an lột mất cởi truồng tô hô .
Rũ nhau kéo đến cụ Hồ,
“ Thương nhau “ đến nổi tô-hô thế nầy!
Nên thời đại Hồ-chí-Minh chính là thời đại được người dân gọi là thời đại:
Đồ đá
Đồ đồng
Đồ ngu.
Đồ đểu
Ngày 30. tháng 4 năm 1975, lịch sử dân tộc Việt Nam đau đớn chuyển qua khúc quanh trầm thống nhất. Người dân bán tháo tất cả vì đối với cộng sản thì bất cứ cái gì cũng được nâng lên hàng “quan điễm”, nhất là những sản phẩm tri kiến như sách vở. Sau biến cố đau thương, nhan nhản những “sạp” bán sách lề đuờng, một dấu hiệu của sự văn hóa bị suy thóai :
- Thiệu, Kỳ lại bỏ đi đâu
Mà dinh Độc lập thãm sầu nằm kia?
- Thiệu, Kỳ dọt chạy từ khuya
Cho nên nón cối kéo đầy về đây
Dép râu trong đó phơi đầy
Ngòai nầy sách quý, ta bầy bán “son”
Quê hương trong buổi hòang hôn
Bửa lưng, bửa đói cồn cào lòng ta.
D/ Ngu dân :
CSVN xem Ðất nước VN là sỡ hữu riêng của chúng. Ðể quyền lực được chuyền liên tục qua tay các thế hệ con cháu của chúng theo kiểu :
Con Vua thì được làm Vua,
Con sải thầy chùa phải quét lá đa.
nên Trung-ương đảng chỉ thị ngoài thang điễm phân biệt con cán bộ đảng viên; con dân và con Sĩ-Quan Viên chức chế độ cũ (VNCH) mà chúng gọi là ngụy quân, ngụy quyền và ngụy dân, hồ sơ phải được chuyển lên trung-ương đảng CSVN duyệt xét. Vì vậy mới có trường hợp như học sinh Nguyễn Mạnh Huy năm 1981 thi vào Ðại-học Bách khoa Ðà-Nẳng được 26 điễm1/2 nhưng vì cha là quân-nhân thời Tổng-Thống Ngô-Ðình-Diệm và đã tử trận lúc Huy mới lên 2 tuổi nên không được nhập học trong khi đó con của đảng viên chỉ có 2 điễm lại đậu y khoa! (báo Tuổi Trẻ ngày 12 và 31.3.87) thế nên mới có cảnh:
Mười năm cắp sách đến trường,
Ðến năm mười một , cầm cày theo trâu.
Muốn biết tương-lai của một Quốc-gia, người ta chỉ cần nhìn vào hệ thống và chương trình giáo dục, đào tạo học-sinh, sinh-viên của Quốc gia đó. Ngày xưa, xã-hội Việt-Nam trọng vọng giáo-chức, nên hàng ngũ giáo-chức được trọng đãi cả về vật-chất lẫn danh giá; nhờ thế, đạo-lý Dân-tộc vững-bền tạo nên ý-thức tự-hào về nền văn-hiến của giống nòi. Còn dưới sự cai trị của CSVN, sự đói nghèo túng thiếu, chèn ép, đã làm hàng ngũ giáo chức sa-đọa, giá trị phẫm chất suy yếu và tiêu tan, nên mới có cảnh đau lòng như sau:
Thầy giáo lãnh lương ba đồng,
Làm sao sống nổi mà không đi thồ?
Thầy giáo mà lại đi thồ,
Làm sao dựng nổi cơ đồ Việt-Nam!
Ngày xưa dưới chế độ VNCH thì:
Tiên học lễ, hậu học văn
Dưới chế độ cộng sản “ưu việt” thì:
Tiên học phí, hậu học gian.
Câu đối sau đây cho chúng ta hiểu được nỗi ngao ngán của giới “gỏ đầu trẻ” mà bọn đồ tể CSVN tâng-bốc mỵ lừa là “kỹ-sư tâm hồn”:
Mực đen, bảng đen, cuộc đời đen, đen như mõm chó.
Phấn trắng, giấy trắng, bàn tay trắng, trắng tựa râu Hồ.
Thực trạng nền giáo dục dưới chế độ CSVN cho phép chúng ta đoan quyết, khẳng định rằng : không thể có “Lương-Sư” – mà không “Lương-Sư” thì làm sao “Hưng Quốc”.
CSVN cố tình tạo cho đời sống thật khốn khổ, thật ngu dốt để dễ cai trị, chúng chỉ muốn nhân-dân cúi đầu tuân thủ mệnh lệnh chúng, và tốt hơn hết là phải làm sai, làm ẩu để bọn cán bộ cấp trên có điều kiện khốngchế.:
Làm theo cán bộ thì chỉ ăn cháo,
Làm láo nháo thì được ăn cơm.
Thành phần lãnh-đạo được đào tạo như thế thì sự phát triển đất nước đương nhiên phải rơi vào hỗn loạn và đầu voi đuôi chuột, mà người dân mô tả như sau:
Vũng Tàu có một con voi
Ðủ cả đầu đuôi, đủ lẫn cả vòi.
Voi cũng như người ham sản xuất,
Ðầu thì trồng sắn, đít trồng khoai.
Hay:
Tư duy đổi mới làm càn,
Tượng nàng Tô-Thị phủ phàng nung vôi. (30)
Và cộng sản Việt nam tạo thêm một lọai gọi là “văn hóa mới”gọi là văn hóa “rút ruột, văn hóa phong bì và văn hóa hạ cánh an tòan. Ba loại “văn hóa” ấy xin được giải thích như sau:
1/ Rút ruột (Ruột là vật trong bao bì, cán bộ ăn cắp trả lại bao bì trống)
2/ Văn hóa phong bì (phong bì còn có nghĩa là tiền hối lộ)
3/ Hạ cánh an tòan (khi bị tố giác thì đã có cấp trên che chở cho)
E/ Lường gạt:
Một việc gì đó mà chế-độ VNCH trước kia thực hiện thì bọn Việt-cộng kết án hết sức thậm tệ, nhưng sau đó chúng lại thực hiện nhiều lần hơn. Ví-dụ như những câu ca dao mới sau đây, người dân mai mĩa CSVN về xổ số:
Ngụy xưa bóc lột dân ta,
Cho ra xổ số Quốc-Gia mỗi tuần.
Ðảng ta nay biết thương dân,
Chỉ ra mỗi tháng bốn lần mà thôi.
Từ thành thị đến thôn quê,
Nhân-dân chơi số khỏi mê bạc bài.
Ngụy xưa vơ vét của người,
Ðảng nay xây dựng kinh tài khác xa.
Xưa thì xổ số Quốc-Gia,
Nay thì xổ số Cộng-hòa Mác-Lê!
Mặc dù cán bộ cộng sản sống sung túc, hoang dâm trên khổ đau trầm thống, hờn hận ngút ngàn của nhân dân; nhưng chúng luôn nỏ mồm kêu gọi nhân dân phải thắt lưng buộc bụng, phải đổ thêm mồ hôi, máu xương cho chúng. Thức ăn thức uống, quần áo và phương tiện sinh sống hưỡng lạc của cộng sản rút từ xương, từ máu, từ mồ hôi, từ nước mắt, từ sự chia ly tan tác, từ tù đày oan khốc, từ hờm căm tột cùng của nhân dân VN. Bởi thế người VN cay đắng hỏi:
Ai sinh ra củ khoai mì!
Hỏi: Ðể làm gì? – Ðáp: Ðể mà ăn!
Nước nhà gặp mãi khó khăn,
Dân mình mãi mãi phải ăn khoai mì!
F-/ Ðàn áp tù đầy:
Sau ngày 30.4.1975, khi cưỡng chiếm thêm được niền Nam, CSVN tuyên truyền cái gọi là:“Ðại-nghĩa Dân-Tộc“, đoàn kết, không trả thù, không tắm máu...Nhưng với chính sách gọi là mười ngày “Học Tập Cải Tạo“ chúng đã làm khô dần máu tù nhân cải tạo. Thân nhân họ bị đe dọa, đời sống xã hội muôn trùng khó khăn. Trong thâm sâu thì mục đích cuối cùng của chúng là cưỡng chiếm vợ con họ, tạo nên xã hội chỉ biết hèn hạ để sống. Chúng phá tan nát đạo đức hệ thống gia-đình. Hệ thống ấy từ ngàn xưa được xem là khả năng tiềm ẩn sức mạnh giữ gìn an nguy Tổ-Quốc. Nền đạo lý nầy là cản lực chính không cho phép Việt cộng tự do mãi quốc cầu vinh, do đó chúng cần phải tận lực triệt hạ:
Mười ngày lương thực anh đi,
Mười năm biền biệt cũng chưa thấy về.
Nhìn con, ruột thắt ê chề,
Bao giờ anh được trở về với con!
Hậu quả của cái gọi là mười ngày học tập cải tạo là:
Khoai mì cải tạo tốt tươi,
Mỗi gốc bón một Người Tù Sĩ-Quan!
Hay:
Cải tạo vô có ra không,
Ai muốn tìm chồng ra bãi tha ma!
Và:
Giáng-sinh, Chúa ở trên cao,
Chồng con học tập ngày nào thì ra?
Sầu thương máu rĩ mọi nhà,
Ngục tù cải tạo hóa ra điên cuồng!
Hoặc:
Bao giờ cọc sắt ra hoa,
Kẽm gai kết trái thì anh sẽ về!
Xin hãy uống từng giọt lệ thăm thẵm thương đau, và hừng hực phẫn nộ oán hờn của người Việt-Nam trong bàn tay sắt máu CSVN:
Con ơi, máu chảy về tim,
Xa con, lìa Mẹ nỗi niềm xót xa.
Trông con, mắt lệ đã lòa,
Ðêm khuya khắc khoải, tuổi già cô đơn.
Nước non dậy sóng căm hờn,
Cộng nô vô lại, Quê-hương điêu tàn.
Rồi người dân lại than thở tiếc nuối:
Mỹ đưa ông Thiệu đi rồi,
Dân ta ở lại chịu đời đắng cay !
G/ Ngăn cấm quyền sinh sống:
Vì cộng sản là băng đảng thảo khấu nên khi cướp giật được thì chúng phân chia phần quyền lợi cho nhau. Mỗi địa phương, có một lãnh chúa. Do vì chúng cũng muốn xum xoe quyền lực hầu thị oai bắt nạt người dân hiền lương chất phác. Phần khác, đời sống của chúng phải sống dựa trên máu lệ người dân thuộc lãnh-địa chúng cai trị. Do đó, nếu người dân được tự-do di chuyển đến nơi khác lập nghiệp thì chúng sẽ phải mất đi phần máu xương người nô dân ấy. Và Dân Việt Nam mới phải than thở cay đắng:
Muốn ăn rau sắng chùa Hương,
Tiền đò ngại tốn, con đường ngại xa.
Ai đi, tôi ở lại nhà,
Cái dưa thì khú, cái cà thì thâm.
Muốn đi, nhưng không đi được bởi vì:
Muốn tắm mát: lên ngọn sông Ðào,
Muốn ăn sim chín: thì vào rừng sâu.
Em đi, anh ở lại thành,
Muốn đi - Nhưng giấy thông hành chưa cho.
Và chua chát khôi hài so sánh:
Trăm năm trong cõi người ta,
Ai ai cũng được di ra đi vào.
Chậm tiến như ở nước Lào,
Nhân-dân cũng được đi vào đi ra.
Tiên tiến như ở nước Nga,
Người dân cũng được đi ra đi vào.
Xa xôi như nước Bồ-Ðào.
Người dân cũng được đi vào đi ra.
Ðen đủi như An-gô-la (Angola).
Người dân cũng được đi ra đi vào.
Ðộc tài như xứ lão Mao,
Người ta vẫn được đi vào đi ra.
Chỉ riêng có ở Nước ta,
Người dân cóc được đi ra đi vào.
Chế độ Công-an trị gây uất hờn:
Mưa to gió lớn ình ình,
Có người tạm trú cũng trình Công-an.
Hay:
Ðau đớn chi bằng mất tự-do,
Ðến buồn đi... ỉa cũng không cho!
Ngay cả chuyện trò với xóm giềng, bằng hữu cũng có thể kết án và đi tù:
Lẫm rẫm lì rì,
Thì đi cải tạo!
Nhằm bưng bít mọi thông tin có hại cho sự cai trị. Những tên đầu lãnh băng đảng thảo khấu CSVN dùng hình luật pháp lý đàn áp quyền thông tin của người dân, quyền nầy đã được ghi trong bản Tuyên-Ngôn Quốc-Tế Nhân-Quyền mà chính chúng đã dặt bút ký công nhận.
Cái mà chúng gọi là Bí Mật của đảng và nhà nước không những là hành động tham nhũng, bóc lột đàn áp dân lành mà còn là hành động dâm ô lưu manh của chúng và người dân khinh miệt ngoảnh mặtvới cái lưu manh hóa pháp luật của cộng sản bất nhân:
Đảng và nhà nước của ta,
Bắt dân được biết những gì dảng cho:
Xã-hội chủ-nghĩa giàu to!
Còn chuyện thụt két, chuyện mò gái non,
Chuyện bán Nước, chuyện cúi lòn…
Những chuyện tiêu cực rút bòn sức dân.
Đảng sẽ xử-lý dần dần,
Còn thêm, còn bớt, đâu cần công-khai.
Luật rừng đảng đã từng xài,
Nhân-dân làm chủ: Bịt tai – khóa mồm!
Dưới tiêu đề:”Vì an-ninh tổ-quốc xã hội chủ-nghĩa. Đảng cộng sản tổ chức hệ thống kiễm soát suy nghĩ vào tận cùng ngỏ ngách cuộc sống người dân vừa tinh vi, vừa trắng trợn. Đây chính là chính sách khủng-bố trắng làm người phải khuất phục và co cụm lại.
Và để phản kháng lại, người dân không tiếc lời mạt sát ghê tởm bằng những lời tuy dí dỏm nhưng đầy miệt thị:
Dòm ngày, chưa đã - dòm đêm,
Dòm rồi lại muốn dòm thêm nũa à ?
Bề gì cái ấy của bà,
Đâu có xoàng xĩnh lá đa vệ đường.
Lá vông chất đống ngoài đường,
Lá tre, lá mít tầm thường thì sao?
Khe bờ thấp, cỏ lườn cao,
Non xanh Karl Marx, suối đào Lenine
Của bà, bà phải giữ gìn,
Sánh tình của bác, những nghìn lần hơn.
H/ Phá vở hệ-thống gia-đình:
Cưỡng chiếm được chính quyền xong, CSVN bèn thực hiện chính sách: ”Ðánh phá để cai trị”. Ðối tuợng của chính sách đánh phá nầy là Ðạo lý Dân-tộc mà gia đình là mục tiêu chủ yếu. Trong xã hội VN, gia đình là đơn vị xã hội căn bản. Ðây là một chính quyền thu nhỏ mà sự hợp tác được tự-động điều hướng bằng tình yêu, bằng trách nhiệm tự nguyện, chân thành. Gia-đình tốt. cung cấp cho Xã-hội, cho Tổ-Quốc những công-dân tốt. Chính hệ-thống gia-đình là sức mạnh trong công-cuộc dựng Quốc, cứu Quốc và kiến Quốc. Vì vậy, muốn cai trị VN, CSVN phải có kế-hoạch phân tán, chia rẽ, ngu hóa và hèn hóa nhân dân VN. Chúng gây thãm cảnh tan đàn xẻ nghé, cảnh oan ức nghiệt ngã. Chúng ngụy tạo những tình huống khắc nghiệt để mọi người nghi ngờ, ngộ nhận, thù hận và tìm cách tố cáo trả thù lẫn nhau. Cuối cùng là chấp nhận hèn hóa, cúi đần câm nín. Trong các cuộc đấu tố, trừng phạt, hành hạ thì kẻ trực tiếp ra đòn luôn luôn là thân nhân ruột thịt của nạn nhân:
I/ Phản-phúc lọc lừa, lật lọng : Ban đầu CSVN lợi dụng lòng yêu nuớc, nhu cầu gải phóng đất nuớc khỏi tay thực dân Pháp; đó là ý chí của tòan dân. Cộng sản gian trá núp dưới bóng cờ quốc Gia cùng tòan dân kháng chiến, để rồi từng bước, từng bước chiếm đọat, cướp công kháng chiến của tòan dân, tự xưng lãnh đạo kháng chiến. Sau bao năm dài dưới sự cai trị hà khắc, cộng sản Việt Nam gieo rắc biết bao oan trái thê lương . Những oan trái thê lương ấy hằn lên thân thể VN những vết thương tích quằn quại. Bây giờ thì người dân đã thấy rõ, quá rõ bộ mặt thật đáng ghê tởm của CSVN, và họ nguyền rủa:
Cộng sản hô hào: vì dân đánh giặc,
Giặc đi rồi, quay lại đánh dân.
Ðánh từ sĩ tốt lương dân,
Bần cùng đói khổ cơ hàn khắp nơi...
Nông thôn cho tới thị thành,
Ðâu dâu cũng phải quấn vành khăn tang.
Kể từ Lập Quốc Hồng Bàng,
Chưa bao giờ khổ bằng thời Cộng nô,
Chơi gian sang đoạt cơ đồ,
Lòi ra bản mặt, phỉnh lừa bất nhân.
Hay:
Núi xương, sông máu tràn đầy,
Thực dân, Cộng sản một bầy dã man.
Tham ô, hống hách, bạo tàn,
Giết người, cướp của xóm làng tránh xa.
Và:
Việt-Nam giòng giống Rồng Tiên,
Mà sao có lắm thằng điên thế nầy!
Tàu, Nga cùng bọn, cùng bầy,
Cùng quân bạc ác, phản thầy hại dân.
Vô tài, thất đức, gian manh
Nạn nhân cùng khắp thị thành, thôn quê.
Bây giờ, dân đã ê chề,
Cộng Hồ phải diệt, lời thề quyết tâm.
Hoặc:
Chua ngoa, đĩ điếm lộng hành,
Thực-Cộng, phong kiến môt bầy trước sau.
Dân lành khuyên bảo lẫn nhau,
Ðừng nghe Hồ cáo, chuyên lừa hại dân
Non sông hoa gấm là do nhờ công ơn Tiền nhân lẫm-liệt anh hùng tạo dựng và bảo vệ bằng máu lệ. Nhưng khi rơi vào bàn tay hung bạo cộng-sản thì trở nên héo hắc tiêu điều:
Ai qua Sông Bé Bình-Dương,
Cảnh vật nay đã đổi thay lạ thường.
Hoang vu, vắng khách ngàn phương,
Công an một lũ, phố phường hoang mang.
Ðâu rồi Sông Bé Bình Dương,
Ðất Nước, xóm làng đổ nát tang thương.
Và đây, nỗi lòng ngao ngán của đồng bào thuộc Ba Thôn Vườn Trầu, nơi mà CSVN có cơ sở đảng đầu tiên tại Sai-Gòn, nơi mà Hồ-chí-Minh phong cho Nguyễn thị Minh Khai bí thư thành ủy Sàigon – Gia-Ðịnh Và cũng là nơi cán bộ cộng sản thường khoe khoang là “thành đồng” của chúng:
Em là cô gái bán trầu,
Ba thôn Bà Ðiễm giàu tình nghĩa nhân.
Tiển anh trai tráng đầu quân,
Gánh trầu dưới gạo vào rừng nuôi anh.
Về thành nặng trỉu gánh chanh,
Bên trong súng đạn để lo “hợp-đồng”.(31)
*
Bây giờ giải phóng thành công.
Ði đây. Ði đó phải trình công-an.
Có lần Lê-Duẫn tham quan,
Ba thôn cảnh cũ chốn nầy năm xưa.
Dân nghèo cơm nắm muối dưa,
Lầm than cơ cực hơn thời chiến tranh.
Duẫn bèn ra lịnh tiến nhanh,
Nhảy xuống Cộng-sản, tan tành Nước Non.
Cho dù của cải cỏn con,
Phải kê khai rõ, có còn gì không?
Cha tôi có chiếc nhẩn vàng,
Gia tài nội ngoại, họ hàng để cho.
Cán bộ ngắm nghía, đắn đo:
“Nhà mi, cái gốc bần nông,
Làm thuê làm mướn,cất vàng hiễm nguy!
Chỉ cần ra sức thi đua,
Tạo ra của cải, Ðảng thì giữ cho.
Sáng chiều khoai sắn, bo bo,
Miễn sao no bụng – Tự-do chớ đòi!”
Người xua có câu :”Một sự bất tín, vạn sự bất tin”.Đạo lý nầy, nhằm mục đích rèn luyện nhân cách và phẫm giá làm người. Bởi thế, trong thuật trị nước an dân thì chinh phục lòng dân là Quốc sách cần yếu nhất. Do không phải từ nhân dân, do không phải vì nhân dân và do không phải cho nhân dân nên nhân dân Việt-Nam xem CSVN là tập đoàn thống trị tham ô bỉ ổi đê hèn gian dối và tội phạm:
Nói lời thì phải giữ lời
Đừng như thằng cộng chưỡi rồi lại khen.
Nói lời thì nhớ muôn đời,
Đừng như thằng cộng khen rồi lại chê.
G/ Tuyên xưng Giá-Trị Vật-chất , hũy diệt giá trị đạo-dức :
1/- Giá trị đồng-tiền là tuyệt đối :
Chủ thuyết duy vật của Cộng-Sản khẳng định vật chất quyết định toàn thể giá trị đời sống. Xã-hội do chúng thao túng, rơi vào tình cảnh bất nhân bất nghĩa. Ðồng tiền là sức mạnh tối thượng, dưới đây là vị trí đồng tiền theo kiểu cộng sản:
Tại Nước Cộng-Hòa Xã-Hội Chủ-Nghĩa Việt-Nam:
Tiền là Tiên là Phật,
Là sức bật mọi người.
Là nụ cười tuổi trẻ,
Là sức khỏe tuổi già.
Là cái đà danh vọng,
Là cái lọng nịnh thần,
Là cái cân công lý.
Ôi đồng tiền còn rất nhiều ý,
Nó còn là tuyệt mỹ của tình yêu!
2/- Lấy sự hoang lạc nam nữ làm phương tiện tồn tại :
Bất chấp truyền thống tôn trọng và giữ gìn trinh tiết làm nền tảng cho sự bảo vệ gia-đình, CSVN lơi dụng sự nông nổi, sự phát triển tình dục tuổi dậy thì; chúng xem đó là phương tiện vừa cho chúng thỏa mãn thú tính vừa làm điều kiện cho sự phát triển hoạt động có lợi cho chúng, xin hãy nghe người dân nhận định:
Gái già cho tới đỉ non,
Hể ra khỏi cửa là son, đô, mì.
Son son, đố đố, mì mì,
Con tôi to bụng cũng vì mí son!
Và:
Gái nông-trường.(32)
Giường bệnh xá. (33)
Má văn công. (34)
Mông bộ đội. (35)
3./ Quốc thể bị xúc phạm :
Vì muốn lường gạt, bịp bợm nhân dân, bọn CSVN bất cần danh dự, chúng xin cho Phạm Tuân quá giang trên phi thuyền của Liên-Xô, mang theo cái gọi là “phương án nghiên-cứu bèo hoa dâu trên cung trăng” trở thành trò cười cho thế-giới. Cái tội khoe khoang, xum xoe hám danh của đảng CSVN đã làm danh-dự Tổ-Quốc bị xúc phạm là một trong những trọng tội mà lịch sử mãi mãi lên án :
Cơm ngô độn với khoai mì,
Ði lên vũ-trụ làm gì hở Tuân?
Hay :
Nhân dân thiếu gạo, thiếu mì,
Mày vào vũ-trụ làm gì hả Tuân?
Hoặc:
Cơm ăn một gạo hai mì,
Chuyện ngoài vũ-trụ cũng đòi tòn ten.
Tại sao CSVN quỳ gối năn nỉ cho Phạm Tuân?. Chúng ta hãy nghe người dân giãi thích lý do bọn ma đầu Trung-ương CSVN xin cho Phạm-Tuân quá giang phi thuyền và hậu quả của chuyến quá giang ấy:
Một thằng lên vũ-trụ ,
Mười thằng đi Mút-Cu.( Moscow)
Trăm thằøng chén lu bù,
Triệu thằng lòi xương khu!
VIII.- Người dân so sánh hai chế-độ (Cộng-Sản & Quốc-Gia):
Người dân bình thường chỉ ủng-hộ và yên lòng sống với bất cứ chính quyền nào đem đến cho họ đời sống no ấm và tự do, nhân phẫm con người không bị chà đạp bất công. Nhưng sau hơn nửa thế-kỷ sống trong sự nghiệt ngã của Cộng-sản, họ cảm thấy nuối tiếc các chế-độ trước, dù rằng họ cũng chưa hài lòng lắm với các chế-độ ấy. Chắc rằng: nếu được chọn lựa thì họ vui lòng sống trở lại với những chế-độ trước kia họ đã từng sống:
Ðả đảo Thiệu-Kỳ,
Mua cái gì cũng có.
Hoan hô Hồ-chí-Minh,
Mua cái đinh cũng đăng ký.
Mua quả bí phải xếp hàng,
Mua khoai lang lấy củ thối,
Mua cá đối gặp cá ương
Hay
Ở với Hồ-chí-Minh,
Cái đinh cũng đăng ký.
Trái bí cũng xếp hàng,
Khoai lang cần tem phiếu.
Thuốc điếu phải mua bông.
Lấy chồng phải cai đẻ,
Bán lẻ chạy công-an.
Lang thang đi cải tạo,
Hết gạo ăn bo bo.
Học trò không có tập,
Ðộc-Lập với Tự-Do,
Nằm co mà Hạnh-Phúc!
Hoặc:
Ngày xưa nô-lệ còn cơm,
Ngày nay độc lập xương sườn lòi ra.
Ngày xưa nô lệ ở nhà,
Ngày nay độc lập đi ra chiến trường!
Và:
Ngày xưa roi điện thì còn,
Ngày nay roi gạo xoáy mòn thịt xương.
Rồi người dân mai mỉa:
Gió đưa ông Thiệu về làng,
Bán gạo cắt cổ: một ngàn một bao.
Gió đưa cách-mạng về làng,
Gạo bán rẽ mạt: một ngàn một cân.
Ðời sống ngày càng khốn khổ vì vật giá tăng theo tỷ lệ ngu dốt và tham quyền cố chấp của băng đảng Cộng-sản VN:
Thời ông Hồ: gạo một đồng ba,
Ðến Tôn-đức-Thắng gạo ba bốn đồng.
Thời Lê-Duẫn, Phạm-văn-Ðồng,
Gạo tới tám đồng, chẳng có mà mua!
Họ cay đắng:
Ngày xưa thách cưới lợn gà,
Ngày nay thách cưới khoai mì, khoai lang.
Và:
Hà-Nội ngày nay chán mớ đời,
Người trông như ngợm, ngợm như người.
Ðói ăn hốc hác trơ xương má,
Thiếu mặc tô hô hở thịt đùi.
Chen chúc tranh mua cân gạo mốc.
Xếp hàng chờ lảnh mớ cá ôi,
Ngàn năm văn vật là thế đấy,
Biến đổi tang thương dở khóc cười!
Và rồi họ hóm hỉnh cười ngạo:
Thương cho Thị-Nở thời nay,
Ruợu mua không đủ làm say Chí-Phèo.
Hay:
Lương tẩm lương tâm mất sạch rồi,
Chỉ còn lương thực giá cao thôi.
Lương tâm sao quý bằng lương thực,
Chân lý, chân lỳ cũng thế thôi
IX.-Hậu quả chính sách cai trị của đảng CSVN với nhân-dân VN :
Sau gần nửa thế kỹ nòi giống bị cai trị, bị đau nhục bởi bàn tay thô bạo với sách lược thô bĩ đảng CSVN gây hàng núi tội ác, NDVN rừng rực lửa hờn căm:
A./ Ðời sống quá cơ cực :
Ăn qua loa, (36)
Mặc áo da, (37)
Nhà điện tử, (38)
Xe cố vấn. (39)
Và:
Muốn ấm no phải lo cuốc mã,(40)
Muốn thong thả phải đi phá thai .
Hay:
Chồng già vợ trẻ là tiên,
Vợ già chồng trẻ là duyên ba đời
Đứa thì đứng bán chợ trời .
Ðứa bán vé số lần hồi kiếm ăn .
Bác Ðảng vĩ đại muôn năm,
Em tuột quần đái, anh cầm áo che.
Ðời sống người dân đã cùng đường, cuối nẻo cơ cầu:
Ði dâu vắng cửa vắng nhà,
Thưa rằng tôi vẫn đi:“chà đồ nhôm“.
Ði đâu tay xách nách ôm,
Thưa rằng tôi vẫn đi chôm đồ nhà!
B./ Xã-hội bị đảo điên tha-hóa:
Chính quyền đúng nghĩa phải là: Từ Dân, Do Dân và Vì Dân. Từ khởi điễm ấy, chính quyền phải có trách-nhiệm mang đến áo cơm, làm cho đời sống dân chúng thăng tiến sung túc, dân chủ, tự do và hạnh-phúc. Quyền làm người được nhìn nhận và tôn trọng. Nhưng tiếc thay, CSVN lại là nhà cầm quyền thảo khấu là bọn phỉ quyền đạo tặc nên chúng bất lương, chúng hà hiếp cướp đoạt tính mạng, tài sản của người dân. Tài sản ấy kết nên do biết bao mồ hôi, nước mắt có khi cả máu xương và tạo dựng lên bằng nhiều thế-hệ. Do Cộng-sản thống trị khuynh-loát quyền sống người dân, xã hội bị khống chế nên cả xã hội lẫn người dân phải bị tha hóa, vong thân. Sống dưới nanh vuốt phi nhân CSVN, người dân hoàn toàn mất hết và mất hẳn quyền làm người. Từ suy nghỉ đến ước mơ cho dự-phóng vào tương lai đều bi đảng CSVN hủy hoại. Bởi thế, kiếp sống con người trở nên hèn yếu, vô vọng, và vong thân tha hóa. Kiếp nhân sinh nổi trôi bồng bềnh theo gió dập mưa dồn, phong ba bảo táp. Khi mô tả thân phận vong thân đau nhục ấy, người dân dùng hình ảnh ê chề uất nhục của phụ-nử Việt-Nam ngày xưa trung trinh hiền lành, nay đành phải lâm vào cảnh buôn hương bán phấn nát tan cả phẫm hạnh nhưng vẫn cơ cùng lầm than:
Khi xưa đỉ ở trong nhà,
Bây giờ “giải-phóng” đỉ ra ngoài đường
Hay :
Chiều chiều dạo bến Ninh-Kiều,
Dưới chân tượng “bác” đỉ nhiều hơn dân.
Tâm trạng người dân buồn phiền tan tác:
Cộng-sản đến đâu, dân sầu đến đó,
Cuộc đời khốn khó, đói khổ oan khiên.
Họp hành thuế má, bảo tố liên miên,
Hết lo, đến sợ, chùa chiền vắng tanh.
Sau đây là bức tranh phác họa thãm cảnh hàng ngày cùng với bộ máy kềm kẹp nơi phát sinh mọi tai-ách khổ nạn giáng, lên đầu người dân VN:
Việt-Nam ngày nay, chết thật nhiều,
Chết vì đói, chết vì tiền.
Vì khôn, vì dại, vì ngu, vì liều.
Chết vì quỷ khắp phố phường,
Qủy từ Trung-ương,
Quỷ xuống địa phương.
Ði đâu cũng quỷ lan tràn Quê-hương.(41)
Quỷ đây chính là ủy-ban, bộ phận trực tiếp hạnh họe, hiếp đáp, cướp giựt tài sản và đe dọa sinh mạng quần chúng VN. Bài vè dưới đây mô tả thực trạng đời sống người dân dưới bàn tay thô bạo CSVN:
Nghe vẻ, nghe ve,
Nghe vè quản lý:
Ai không có tiền,
Ðồ quân làm biếng!
Ai có nhiều tìền,
Do đâu mà có ?
Của cải làm ra,
Phải để Ðảng ta,
Ra tay quản lý!
Hạch sách đủ điều,
Ai muốn chi tiêu:
Cưới hỏi, ma chay,
Sản xuất, linh tinh
Chi-tiết khai trình.
Mới được rút ra,
Nhà Nước chúng ta,
Chỉ là quản lý,
Làm chủ là dân!
Suốt đời phải khổ:
Nô lệ chung thân,
Ngậm miệng nín thinh,
Hoan hô Chính-phủ,
Suốt thông cương-lỉnh,
Những điều chú phỉnh
Và :
Những lời hẹn ước thề non,
Khi quân Cộng phỉ hãy còn trong hang.
Bây giờ bọn chúng tràn lan,
Chúng cướp hết của, lại đàn áp dân.
Ðánh đi, chà lại nhiều lần,
Lầm than tan nát, nhân dân bần hàn.
C./ Ngoan-cố :
Với chiêu-bài “Ðổi mới”, CSVN dùng hết mọi mánh khóe điêu ngoa, bất-chấp liêm sĩ tối thiểu cố nhào nặn ra những khuôn mặt mới, hầu che đậy những gian tà trí trá nơi chúng. Mục-đích cái gọi là đổi mới nầy chỉ để lừa gạt thế-giới khờ khạo chưa biết gì về Cộng-sản. Chúng dùng chiêu bài đổi mới để dể bề van lơn xin xỏ viện-trợ, chất cho đầy túi tham, củng cố sức mạnh bạo lực gian ác; hầu đè bẹp ý-chí đối kháng của toàn dân.
Hỡi nhân-loại, xin một phút bằng sự trong trắng của lương tâm! Hãy nhìn về Việt-Nam – Quê-hương của đọa đày máu lệ và oan khốc. Xin hãy cúu giúp nhân dân VN chúng tôi mau chóng thoát khỏi lao tù đày đọa và thối nát Cộng-Sản. Mọi sự giao thiệp với bọn Cộng-sản cầm quyền đều có nghĩa là thổi tắt niềm ước vọng Tự-Do, Dân-Chủ tha thiết của dân Việt-Nam. Là đồng lõa với TỘI ÁC:
Tên Anh, tên Kiệt, tên Mười,
Dở khóc, dở cười biết chọn tên nao?
Tên nao, tên nảo, tên nào,
Một đồng, một cốt làm sao bây giờ.
“Mở cửa” chỉ ở giấy tờ,
“Ðổi mới” nhìn lại chỉ thờ mấy ông.
Ðèn cù cứ chạy lòng vòng,
Cái bình chất ruợu hãi hùng như xưa
Hay:
Việt-Nam đổi mới thế nào,
Mắm cũ, hủ mới hô hào cho hay.
Ðảng kia đổi mới thế nầy?
Dân còn quằn quại, đắng cay dài dài.
Hoặc :
Ðổi mới là đánh bóng Hồ,
Bịp dân như bịp lũ ngu dại khờ.
Dân đau dân ghét Cộng nô,
Càng nhiều phẫn hận, chống Hồ hơn xưa.
Mặt Hồ mo cứng gáo dừa
Ðập cho tan nát, cho chừa gian manh.
Chỉ có một phương cách đổi mới duy nhất. Mà phương cách nầy chính là ý nguyện của toàn thể Nhân-DânViệt-Nam:
Ðổi mới là dẹp ngay liền,
Cái quân chồn cáo đã phiền hà dân.
Ðổi mới là Cộng hết phần,
Của Dân, Dân tính chuyện gần chuyện xa.
Không có kể lể kêu ca,
Lậy ông suy lại, lạy bà xét coi!
Ðổi mới là dẹp một hơi,
Dẹp quân tham ác, dẹp nòi bất lương.
Ðổi mới dẹp hết chẳng nương,
Cái bọn ma giáo, sống bằng máu dân.
Ðổi mới là diệt quỷ ma,
Vùi chôn xú uế, gian tà là xong.
Ðổi mới mà vẫn ách còng,
Dân vẫn căm thù, đừng nói uổng công.
Toàn-dân kết án bọn Mafia cộng phỉ, chỉ thẳng vào bản mặt gian tham lì lợm cố bám vào quyền lực của chúng:
Ðảng ta là đảng cầm quyền,
Ða thê thì được, đa nguyên thì đừng.
Nói thì đạo đức cao sâu,
Lòng thì toàn lũ đầu trâu mặt người.
Nói thì Cách-Mạng đổi đời,
Làm thì đói khổ gấp mười thực-dân.
Chết còn ướp xác xây lăng,
Lể nghi bày đặt trăm phần xa hoa.
Các vua phong kiến thua xa,
Ðổi đời Cách-Mạng hay là chủ nô.
Lòi đuôi đầy tớ Nga-Sô,
Buôn xương bán máu, giặc Hồ gian manh.
Tượng bia rồi cũng tan tành
Miệng dân mới thực sử xanh ngàn đời.
Lăng xây, xác ướp lổi thời,
Ngàn năm còn để cho đời cười chê.
Ðúng là một lũ lợn, dê.
D/ Tiêu cực và bất hợp tác:
Chủ Nghĩa Cộng sản bị người dân miệt thị, người dân chỉ chờ ngày liệng vào xọt rác:
Mát-xít – Lê-Nin-Nít,
Mít chết - Lê-Nin-Thít.
Hay:
Mát-xít – Sta-lin-nít,
Mít-hít – Sta-lin-kít.
Hoặc :
Cá Liên-Xô,
Bán Xô-bồ,
Mua không chọn.
Và :
Xe Liên-Xô,
Xô đi xô lại,
Xe thãm hại,
Xô lại xô đi .
Ðối với Cộng sản, người ta có kinh nghiệm: “Tự giác là tự sát“. Từ không tin tưởng đến khinh ghét rồi bất hợp-tác:
Thứ nhất ngồi ỳ,
Thứ nhì nhất trí.
Người dân cợt đùa với cái gọi là “Nghĩa-vụ lao-động“ mà cộng sản trắng trợn hợm hĩnh gọi là “vinh quang”:
Lao-dộng là gian-nan ,
Lang thang là chết đói.
Hay nói là ở tù ,
Lù đù thì làm quan .
Hay :
Lao động là vinh quang,
Huyênh hoang là chết đói.
Hay nói là ở tù,
Lù khù là đi kinh tế mới.
Hoặc :
Lao động là vinh quang,
Lao tâm là chợ rẩy.
Lao phổi là Hồng-Bàng,
Lao-xao là nhà đá.
Rồi họ khôi hài giải thích:
Lao động là vinh quang,
Khoai lang là thuốc bổ.
Thấy sang bát quàng làm họ, là một trong kho hàng tiểu xảo của Việt cộng. Chúng ca ngợi nhờ chế-độ XHCN ưu việt nên những đoàn đi thi thể thao bao giờ cũng đoạt giãi “cúp” Người dân dùng thuật ngữ “cúp” để chế diểu sự hợm hĩnh và hung bạo của chúng:
Thể thao Nước mình nhiều cúp nhất,
Cúp nước, Cúp điện, cúp khẩu phần,
Cúp tiền, cúp gạo, cúp luôn đầu dân
Và đây là thái-độ lao-động của người dân trong khi bị bắt buộc phải đóng thuế đinh dưới danh từ mới “Nghĩa vụ lao-động tập thể”:
Làm thì đói,
Nói thì no.
Quyền thì sướng,
Bướng thì chết.
Hay:
Nắng nghỉ, mưa ngủ,
Mát trời tranh thủ đứng chơi!
Hoặc:
Ðào giếng đứng trên,
Lợp nhà đứng dưới.
Và:
Cái gì có thể ăn được hôm nay:
- Chớ để ngày mai
Cái gì có thể làm được ngày mai :
- Chớ làm hôm nay !
Cuối cùng họ khẳng định:
Hợp-tác với lại hợp te,
Dân không có váy để che cái “ lờ “!
Và đây là “ý thức nghĩa vụ quân sự” của người dân khi họ thấy rõ rằng: cộng sản không những khai thác sức dân , bóc lột mồ hôi nước mắt của họ mà họ còn bị bọn ngưu đầu mã diện cộng sản tước đọat luôn cả mạng sống để phục vụ cho ý đồ xâm lăng theo mệnh lệnh của bọn cầm đầu Bắc bộ phủ hầu thỏa mãn cho nhu cầu chiến tranh giữa hai nước đàn anh cộng sản là Tầu cộng và Nga sô mà thời diễm ấy thì cộng sản VN là tên lính xung kích cho Liên sô. Bởi thế, người dân bèn có phản ứng:
Ngồi buồn ta đếm ngón tay,
Nghe tin nghĩa vụ, chặt ngay ngón nầy!
Nhân dân vẫn hoài vọng, mong mõi được sống lại những ngày xưa êm ái, một thời thái bình, dù rằng đất nước đang chiến tranh, nhưng với sự bảo vệ của Chính quyền Quốc Gia, người dân vẫn ung dung thoãi mái, cuộc sống tuy không quá dư thừa nhưng cũng không thiếu thốn và nhất là họ có tự do.Niềm tiếc nuối ấy đuợc thổ lộ như nhaư sau::
Khoai lang tám tháng thì sùng,
Lấy chồng cán bộ, lấy thằng khùng sướng hơn.
Khoai lang nướng chín mới bùi,
Lấy chồng cán bộ, lấy thằng cùi sướng hơn.
Hay:
Khổ qua mắc nắng, khổ qua đèo,
Lấy chồng lính“Ngụy”,dù nghèo cũng vui,
Hoặc:
Trai miền Nam như chim anh vũ,
Trai bác Hồ như khỉ mắc phong.
Gái miền nam như cành liểu rũ,
Gái Bác Hồ như củ khoai môn.
Chim anh vũ đậu cành liểu rũ,
Khỉ mắc phong gặm củ khoai môn.
E./ Phản kháng :
1/- Vượt biên :
Không thể sống với Việt-cộng, họ đã liều thân ra đi, tìm cuộc sống cho ra kiếp người. Họ đi để tố cáo tội ác CSVN trước lương tâm nhân-loại :
Ai ơi thấu hiểu lòng ta,
Sống với Cộng-Sản chẳng thà chết hơn.
Và:
Ra đi ngậm đắng nuốt cay,
Giũa nanh mài vuốt, chờ ngày hồi hương
Họ cay đắng đùa cợt:
Ðiểm tâm thì:” khoái ăn sang”
Cơm trưa sắn độn gạo“vàng“cũng no.
Chiều ăn rau muống độn bo bo,
Sung sướng như thế còn bò đi đâu,
Mà còn vượt biển với nhau!
Trên 500.000 người chết trong lòng đại dương, nơi rừng sâu, bị hải tặc giết hại, hãm hiếp. Trong nghiệt cảnh ấy người Việt vẫn lạc quan :
Còn nuớc còn tát,
Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo
Và:
Bà già đi chợ cầu bông,
Bói xem sang Mỹ có chồng được không.
Ông thầy gieo quẻ nói rằng :
Ðược thì có được nhưng năng đi tù!
Lạc quan vốn là một trong những đặc tính của người Việt, bởi thế, người Việt mới đem hai tên đầu đảng cộng sản VN là Hồ chí Minh và Tôn đức Thắng để giải thích lý do tại sao họ phải vuợt biên, vượt biển ra đi, từ chối cái “thiên đường” hải hùng cộng sản dẩy đầy liềm búa :
Lão Hồ chết phải giờ linh,
Cho nên dân Việt đào kinh liền liền.
Lão Tôn chết phải gìờ kiêng,
Cho nên dân Việt vượt biên đùng đùng.
Lão Hồ chết phải giờ trùng,
Cho nên dân Việt nổi khùng, nổi điên
Hay:
Chung quy chỉ tại Vua Hùng,
Sinh ra đứa tỉnh, đứa khùng, đứa điên.
Ðứa tỉnh thì đã vượt biên,
Những đứa kẹt lại không điên cũng khùng!
Vượt qua bao gian nan khổ nạn, khi được đến bến bờ tự-do. Tạo dựng lại cơ nghiệp từ hai bàn tay trắng, từ sự khó khăn về ngôn ngữ, phong tục...Tạm ổn định rồi người tị-nạn không bao giờ quên căn cước của mình, nên lòng họ trăm mối ngổn ngang vời vợi ưu sầu cho Quê-Hương:
Chờ ai sương bạc mái đầu,
Thương ai ôm hận bồi hồi suốt đêm.
Tuổi già giọt nắng bên thềm,
Oán thù trằn trọc nổi niềm xót xa.
Bao năm vong quốc tha hương,
Thương mồ, nhớ mả đoạn trường không nguôi.
Không lúc nào họ vơi quên những cay đắng, đểu-cáng, lọc lừa man trá của Cộng-sản, và họ mĩm cười nhạo báng:
Vượt biên mang tiếng Việt gian,
Ba năm, về nước hóa sang Việt kiều.
Việt-gian, Việt cộng, Việt kiều,
Trong ba người ấy, em yêu người nào?
Việt-gian hèn nhát xanh xao,
Việt cộng thô bạo em nào chờ mong.
Việt-kiều gót đỏ như son,
Ðô la, xuất cảnh nghe lòng xôn xao.
Vì đã từng là nạn nhân cộng sản, những người đành phải bỏ lại sau lưng mình bao người thân thương yêu, bao bạn bè, bao hình ảnh ắp đầy kỹ niệm không thể nào phôi pha. Bởi thế, một khi may mắn thóat khỏi gọng kềm cộng sản, ai ai cũng lao vào công việc trước để tạm lo thân phận chính mình, từng bước ổn định, và tiếp theo là hùng hục làm việc; trong đầu của những người lưu vong nầy là cuộc sống bi thãm của thân nhân, bè bạn, chiến hữu đang sống kây lất, đau thương và bị đày đọa dưới gông cùm ngục thất cộng sản. Họ phải lo toan trăm điều; nào là vận động chính trị, tập họp biểu dương sức mạnh đòan kết và ý chí chiến đấu, nhưng quan trọng nhất là kiếm tiền gởi về quê nhà! Sau bao năm tháng lao khổ, đồng tiền kiếm được gởi về quê nhà nhằm mục đích cứu nguy thân nhân, chiến hữu, bè bạn và khi họ nhận thức ra rằng: “Họ bị bọn cộng sản biến họ thành những con bò cho chúng tha hồ vắt sữa. Nào là trường học, nào là dân nghèo, nào là thiên tai. Những hiện trạng xã hội ấy cộng sản lại khóan trắng cho những người tỵ nạn, để chúng rãnh tay hiếp đáp đe dọa và cướp bóc, Những hình dung từ biểu trưng cho tình thương bị lạm dụng, tất cả mồ hôi, nuớc mắt thành quả của chuổi ngày lao nhọc bị bọn cán bộ cộng sản chiếm đọat. Họ lại thêm một lần bị lường gạt.
Bây giờ những người lưu vong, dù đang cõng trên vai tình thương, bảo nổi hòai vọng xót sa, nhưng đứng trước thực tế phủ phàng do bị bọn lưu manh cộng sản lừa phỉnh, họ cũng đã có nhận định về cái gọi là “từ thiện” như sau:
Từ thiện mãi, góp hoài không ngưng nghĩ
Để xây trường, chửa bịnh, mổ mắt cườm
Cho đảng giàu, ngân sách đở tốn hao
Mở trương mục, đưa cháu con du học.
Đảng thãnh thơi, rảnh tay lo đàn áp,
Dân càng nghèo, đảng hoan lạc dâm ô.
Khi tìm hiểu nổi phẫn uất người dân, chúng ta cần lưu ý thuật ngữ nói lái một hình thức vừa tinh-vi che dấu vừa rõ ràng mạnh mẽ:
- Chính-phủ = chú phỉnh
- Chiến khu = chú khiêng
- Thi đua = thua đi
- kháng chiến = khiến chán
- Ðấu tranh = đánh trâu
- Ðầu tiên = tiền đâu
- Hộ-khẩu = hậu khổ
- Hiện đại = hại điện
- Bảng lề = bể làng
- Giáo chức = dứt cháo
- Thầy giáo = tháo giày
- Bác đi = bi đát
- Xô-viết = xiết vô
- lộng kiếng = liệng cống
- Giãi-phóng = phỏng giái
- Bảng đỏ = bỏ đảng
- Mã quy = Mỹ qua
- Chí Minh = chính mi
- Phấn khởi = bới phẩn
- Hồ hỡi = hỡi Hồ
- Cán bộ = bố cạn
- Vũ như cẩn = vẫn như cũ
- khoái ăn sang = sáng ăn khoai
- Tiền là quý = quỳ là tiến
- Ðại thắng lợi = đợi thắng lại
- Chà đồ nhôm = chôm đồ nhà
2/- Hứa hẹn phục hận :
Khi Việt gian cộng sản lâm vào tình thế khốn cùng vì bị thế giới cơ lập, khinh bỉ. Chúng bèn áp dụng chiến thuật mới gọi là :”mở cửa”. Thế là một nhóm người vong thân muối mặt trở về quỳ phuc bọn ác quyền CSVN để tìm chút lợi danh. CSVN gọi bọn nầy là “Việt-kiều”. Như thế đối với Việt cộng thì Việt-kiều là hóa thân từ kẻ trây lười quen sống bám, là bọn đỉ điếm phản quốc thành Việt kiều yêu nước, là khúc ruột ngàn dặm của chúng.
Trước kia, những người Việt sống ở nước ngoài được gọi là “kiều bào hải ngoại” để phân biệt với những người ngoại quốc trú ngụ trên dất nước ta như Ấn kiều, Hoa kiều, Mỹ kiều, Pháp kiều v.v…
Như thế, Việt cộng không xem việt-kiều là cùng chung Tổ-Quốc, nên chúng đã có chính sách phân biệt.
Chúng ta đều hiểu rằng những người Việt-Nam đã liều chết ra đi, hay cựu tù nhân chính trị, hoặc cho dù là được thân nhân bảo lãnh hầu hết đều có mẫu số chung là khinh ghét cộng sản.
Vậy số người nầy trở về Việt-Nam theo chính sách gọi là :”Mở Cửa” để làm gì?
Trước hết, chúng ta phải trân trọng nghiêng mình trước những anh hùng.trở về vì nhu-cầu giải phóng Quê hương sớm thóat ách bạo quyền cộng phỉ. Ho cũng phải trở về vì thương nhớ, vì tình cảm và chúng ta cần cảm thông. Ngọai trừ những trường hợp trên, nhóm người có cái tên là Việt-kiều ấy tựu trung chỉ vì:
- Khi rũng rĩnh có chút vốn liếng, bọn người bất lương núp dưới lớp áo tỵ nạn cộng sản muốn làm giàu thêm bằng cách toa rập, đút lót hối lộ, cúi đầu ngoan ngõan tuân phục bạo quyền cộng sản với danh nghĩa đầu tư, chúng thẳng tay bóc lột mồ hơi và máu lệ của người dân nghèo khổ cùng cực
- Họ về để thõa mãn thú tính, hoan lạc dục vọng khả ố mà nạn nhân là những em bé đói rách thãm thương, thường nạn nhân của chúng còn ở tuổi vi thành niên.
Vì xã hội đuợc định vị qua đồng tiền và bạo lực nên tài phiệt và quyền phiệt liên lập với nhau như; Quyền phiệt dùng bạo quyền để che chở, khuyến khích cho tài phiệt dẫm nát lên đời sống, làm người dân thêm cơ hàn tủi hận. Bọn tài phiệt tài trợ tiền bạc cho quyền phiệt thêm sức mạnh đàn áp dân, đồng thời bọn việt kiều khốn nạn và dơ bẩn nầy tình nguyện làm loa tuyên truyền tiếp tục phỉnh lừa những người ngoài tầm tay chúng.
Oán nặng thù sâu trong lòng.
Nên trước hết người dân việt đã khẳng định thái độ với đám Việt gian, Việt kiều nầy:
Việt-gian,Việt-Cộng,Việt-kiều,
Trong ba thằng đó, thằng nào gian manh?
Việt-kiều, Việt Cộng, Việt gian,
Cả ba thằng đó gian manh lọc lừa!
Và:
Việt kiều, Việt cộng, Việt gian
Ba thằng kết lại hoang tàn nước non !
Tuy rất thù ghét Việt gian cộng sản, nhưng người dân cũng rất khoan dung, minh bạch phân biệt kẻ bị ép buộc và bọn lưu manh dầu trộm đuôi cướp:
Bộ đội, thằng giết thằøng tha,
Ba mươi giết hết, lột da nấu dầu. (42)
Nhưng với bọn ác ôn dưới đây thì món nợ thật quả là quá lớn, khó lòng tha thứ được :
Công-an, thuế vụ, kiễm lâm,
Trong ba thằng đó nên đâm thằng nào.
Ðồng bào ơi hỡi đồng bào,
Ba thằng giặc đó, thằng nào cũng đâm!
Hoặc :
Công an là bạn của dân,
Ở xa thì đánh, ở gần thì đâm
X.- Ðánh đổ thần tượng Hồ-Chí-Minh:
Bằng mọi phương cách, đảng CSVN điễm tô huyền thoại, tạo cho Hồ-Chí-Minh trở thành bậc thánh-nhân. Uy tín Hồ, những hành động gian manh của Hồ chí Minh được cộng sản giải thích theo kiểu bọn gian manh thảo khấu: “Cứu cánh biện minh cho phương tiện”. Hồ chính là cái phao cho đồng bọn bám víu mỗi khi người dân oán hận ta thán.
Ban đầu vì nhu cầu chiến thuật của tình thế phải có người đại-diện cho công-cuộc kháng chiến. Phía Người Quốc Gia thật thà, không tính toan lừa đảo, không tham vọng bẩn thỉu, không cúi đầu rước chó sói vào nhà. Trong lúc đó, HCM và đảng Cộng-Sản có sẳn mưu đồ với sự hổ trợ của Nga-Sô, của Tàu cộng trong mục tiêu mở rộng Ðế-Quốc đỏ; CSVN liên kết với thực-dân Pháp ngấm ngầm tiêu diệt Lực-lượng Quốc-Gia yêu nước chân chính CSVN tận dụng mọi phuơng tiện mánh khóe gian manh lừa mỵ, uy hiếp, hăm dọa, bạo lực v,v… Hồ chí Minh cùng đồng bọn mới được thành như một loại “khỉ nhảy bàn độc” rồi “để lâu cứt trâu hóa bùn”.
Sự thật HCM chỉ là tên lái buôn chính trị với đầy đủ nghĩa xấu xa đê tiện đểu cáng của nó. Bây giờ, qua thời gian với nhiều bằng chứng xác nhận HCM là tổng hợp những nhơ bẩn vô luân nhất. Dù chưa đầy đủ nhưng chúng ta có thể nhận-diện Hồ-chí-Minh như sau:
1.-Hồ-chí-Minh là gian tặc, láo khoét:
Cuộc đời của Hồ-chí-Minh là một chuổi kết nối những thủ đọan trí trá giảo hoạt. Hồ có ít nhất là 58 ngoại danh giả mạo!
Bởi vậy:
Hể ai mà thấy bác Hồ,
Ðàn ông teo tóp, đàn bà sảy thai.
Trẻ con khóc thét, ghẻ sài,
Người già sầu khổ, tương lai tan tành
Hay:
Nhi đồng Quảng-Ngãi ra thăm,
Hồ bẻ trái chuối, giọng mời thân thương.
Cháu về chưa được một năm,
Què tay vì khích dám chơi với mìn.
Hồ ngồi đôi mắt lim dim,
Làm vè đại thắng, tiệc tùng lao xao.
Mậu Thân chết loạn cào cào,
Hồ ca thắng lớn, nâng cao cờ hồng.
Ðiện-Biên-Phủ, thắng thiệt không?
Chệt Mao nó tố, cướp công tướng Tàu.
Giáp ngồi ngáp vặt, sờ râu,
Họ Vi nó bảo đánh nhầu sẽ ăn. (43)
Quý-Ba bảo Giáp ngậm thinh, (44)
Ðể hắn điều động quân mình, nhục ghê
Nói quanh, nói quẩn chán phè,
Biển người quân chết,Hồ khoe thắng rồi
2.- Hồ-Chí-Minh là tên ăn cắp:
a/ Hồ chí Minh ăn cắp tên Nguyễn-Ái-Quốc : Nguyễn Ái Quốc vốn là tên chung của một nhóm các nhà ái quốc chân chính thời bấy giờ sống tại Paris như các cụ Phan-Văn-Trường (người Việt-Nam đầu tiên đậu hai bằng Tiến-Sĩ Luật-Khoa và Văn-Chương tại Pháp). Nguyễn-Thế-Truyền ( Sinh viên Ðại-Học Khoa-Học và Cao-Ðẳng Trung-Ương Paris Pháp). Phan Châu Trinh và Nguyễn An Ninh. Ðảng CSVN phải trả sự thật về cho lịch-sử, đó là Hồ-chí-Minh không đủ khả năng là một cây bút trong nhóm Nguyễn-Ái-Quốc. HCM chỉ là tên sau cùng của khoảng mấy mươi tên một kẻ gian hùng như Anh Ba bồi tàu, Lý-Thụy chỉ điễm viên, Nguyễn-Tất-Thành ký trong hai lá đơn gởi cho Tổng-Thống và Bộ Trưởng Bộ Thuộc-Ðịa Pháp xin vào học trường đào tạo cán bộ tay sai cho Thực-dân Pháp v.v.., HCM là nguyễn-sinh Cuông (Cung) (Theo Cao-Thế-Dung – Chân-tướng Hồ-chí-Minh). Và chính tên Hồ chí Minh thì cũng là tên của cụ Hồ Học Lãm mà tên Nguyễn tất Thành hay Nguyễn sinh Cuông “chớp” luôn.
b/ Hồ chí Minh ăn cắp tập “Ngục trung nhật ký”: Ngục trung nhật ký nguyên là của một người Tàu, bạn tù với HCM và cùng bị Thống-Chế Tưởng-Giới-Thạch bắt giam, khi đuợc biết HCM có lịnh được trả tự do thì tác giả họ Lý nhờ HCM đem về giao cho thân nhân, nào ngờ tác giả đã “giao trứng cho ác”; thế là HCM có cơ hội ghi thêm thành tích ăn cắp trong chuổi ăn cắp suốt đời. Trên trang bìa sách có dấu cạo sửa tên tác giả và có rất nhiều bằng chứng xác đáng để xác nhận Hồ chí Minh không phải là tác giả, Hồ chí Minh chỉ là tên sang đoạt. Giáo sư. Lê Hữu Mục trong bài viết gởi cho UNESCO đã vạch mặt Hồ-chí-Minh là tên đạo văn ( Hồ-chí-Minh không phải là tác gỉa “Ngục trung nhật ký”). Kết quả : Hồ-chí-Minh đã bị cơ-quan quốc-tế nầy hủy bỏ quyết-định tổ-chức vinh-danh y như là một nhà thơ lớn của nhân-loại. Vết nhơ nầy cộng sản không thể nào và không bao giờ rửa được. Hồ chí Minh chính là tên ăn cắp siêu việt thượng đẳng.
3./ Hồ-chí-Minh là tên vô liêm sĩ:
Trâng tráo viết sách, ngụy tạo thành tích để tự ca tụng mình ngoài các tên: Trần-Dân-Tiên, Tống văn-Sơ, Ông K1, Già Thu. Hồ chí Minh còn có các tên như T.L (tội lỗi), XYZ. KĐB (không đàn bà) KGG (Không gật gù) CĐT (còn độc thân) GNT (ghiền nhớ tình)
Chúng ta hãy tạm dừng chân để nghe tên Hà-Minh-Đức giáo-sư của chế-độ CSVN vào năm 1985 đã cho xuất-bản cuốn:”Những Tác Phẩm Văn Của Chủ-Tịch Hồ Chí-Minh” do Nhà xuất bản Khoa-Học Xã Hội, Hà Nội xuất bản trong đó có đoạn đáng lưu ý sau đây :
”Đáp lại tình-cảm mong muốn của đồng-bào và bạn bè trên thế-giới. Hồ Chủ Tịch với bút danh Trần-Dân-Tiên đã viết tác phẩm Những Mẩu Chuyện Về Đời Hoạt động Của Hồ Chủ Tịch ( Trang 132).
Quyển sách nầy lại do Nguyễn-Khánh-Toàn cũng là giáo-sư và cũng cùng hoạt động chung với Hồ-chí-Minh từ thời còn ở Liên-Xô đã xác nhận Trần-dân-Tiên chính là Hồ chí-Minh:
Sở dĩ cần phải xác đinh như thế để chúng ta được bình tỉnh hơn trong việc thẩm định bộ mặt thật trơ trẻn của Hồ khi Hồ xuống tay viết quyển sách nhằm mục đích duy nhất là tự tâng bốc, tự đề cao mình. Viết quyển sách nầy, Hồ chí minh cho chúng ta thấy hình ảnh khôi hài đen là Hồ chí Minh tự trang bị một bàn thờ hết sức lộng lẫy và trang nghiêm, rồi y leo lên chễm chuệ ngồi, xong lại lật đật nhảy xuống xì sụp lạy chính y như sau:
“… Bác Hồ của chúng ta vô cùng khiêm tốn: Bác không muốn kể cho ai nghe về họat động của mình; Rồi Bác Hồ được nhân dân ta coi là cha già của dân tộc: Bác còn vĩ đại hơn Lê Lợi, Trần-Hưng Đạo vì đã đưa dân tộc ta vào kỷ nguyyên xã hội chủ nghĩa”
Và còn thêm một đoạn nữa:
“…Một người như Hồ Chủ Tịch của chúng ta với đức tính khiêm tốn nhường ấy và đang lúc nào cũng bề bộn biết bao nhiêu công việc, làm sao có thể kể cho tôi nghe bình sinh của Người được?”
Phải chăng khi lấy bút hiệu Trần Dân-Tiên, Hồ cũng có ý muốn đánh lận mình với nhân vật khí phách nghĩa hiệp Lục Vân Tiên trong tác phẫm truyện thơ “Lục Vân Tiên” của cụ Đồ Nguyễn Đình Chiểu. Và dây là phản ứng của những người mà Hồ bắt họ phải tự nguyện tôn Hồ là Cha già khi y mới độ tuổi 58.
Vân-Tiên giải cứu Nguyệt Nga,
Bởi vì thấy chuyện bất bình chẳng tha
Lão Hồ gian dối ba hoa,
Suốt đời : luồn cúi – đàn bà – hại dân.
Đạo văn – chỉ điễm – tráo trâng,
Bày trò viết sách để tâng công mình.
Mặt mo, mặt thớt; - Súc Sinh !
Tóp teo nhân tính, nhưng phình điêu ngoa.
Bất lương tự nhận cha già,
Của Nhân Dân Việt , đúng là hồ ly
Hay:
Bác khiêm tốn nhất trần gian
Không tin cứ hỏi thằng Trần dân Tiên.
4./ Hồ-Chí-Minh là tên bạc ác, bất nhân, dâm tặc:
Trước hết, chúng ta hãy nghe người dân nói tổng-quát về cuộc đời tình ái của Hồ-chí-Minh:
Việt-Nam có một ông già,
Râu dài, tóc bạc tên là chí-Minh.
Bình sinh bác vốn đa tình,
Cho nên bác lấy Tuyết-Minh – vợ Tàu.
Tuyết-Minh dâu phải vợ đầu,
Lạc,Xuân,Trưng nữa – ngõ hầu dăm cô.(45)
Cuối đời bác thấy bơ-vơ,
Cho nên bác muốn một cô theo hầu.
Chẳng cần Pháp,Việt, Nga, Tầu.,
Lê-Duẫn phản-đối, lầu bầu bác rên,
Cả đời Bác sống đảo-điên,
Bất cần nhân nghĩa, bác ghiền lá đa,
Thay tên dổi dạng như ma,
Việt-Nam đau khổ vì tên già Hồ.
a.-Hồ chí Minh lợi dụng chức quyền để ép dâm phụ nữ :
Với địa vị là Chủ tịch nước kiêm đảng trưởng thảo khấu cộng sản, Hồ chí Minh có quá nhiều quyền hạn, lợi dụng những quyền hạn đó là Hồ chí Minh đã ép buộc nhiều phụ nữ dưới quyền phải cho Hồ chí Minh thõa mãn thú tính như Nguyễn-Thị-Thập, Ðinh-thị-Mỹ ...đều thuộc thành phần bần cố-nông thất học, dốt nát; nhưng nhờ “Ủng-hộ một tý” (46)- (chữ của Chu Tử) cho Hồ mà được vào Trung-ương đảng. Dù muốn đuợc hưởng lạc với nhiều phụ nữ nhưng HCM vẫn muốn được người dân tôn thờ như một thánh nhân, vẫn nghĩ ông ta là người không vợ con, không gia đình suốt đời hy sinh cho dân tộc. Hồ chí Minh đúng là loại người vừa ăn cướp vừa đánh trống vừa la làng, hay được húp, được chan, được gói mang về
b-Hồ chí Minh là kẻ đa thê và bạc ác: Hồ chí Minh đã từng chung sống vợ chồng với những người đàn bà Tàu như Lin-Sam, Tăng-Tuyết-Minh, Mao Tu Man. HCM cũng được Nga sô cung cấp một nữ “hộ-lý!” khi y theo trường đào tạo cán-bộ Ðông-Phương Vụ. Nghe nói rằng HCM cũng có vợ tại Thái Lan.
c- Hồ chí Minh tham danh phụ tình phụ nghĩa phu thê : Hồ chí Minh đã từng công khai chung sống vợ chồng với Nguyễn-thị Minh-Khai. Sau đó vì muốn phĩnh gạt nhân dân VN, Hồ chí Minh muốn làm cha già dân tộc chỉ vì đất nước mà hy sinh, không có vợ con, dốc tâm giành độc lập cho dân tộc; nên Hồ chí Minh đã đem vợ là Nguyễn thị Minh Khai ”mai mối” cho Lê-Hồng-Phong. Cuối cùng cả hai cùng bị thực dân Pháp bắt và xử tử do một nguồn tin “mờ ám” báo cho thực dân Pháp.
d-Hồ chí Minh trốn trành trách nhiệm làm cha : Hồ chí Minh đã từng có một đứa con gái với Ðỗ thị-Lạc vốn là đồng chí với Hồ, nhưng không dám nhìn; và rồi hai mẹ con bà Lạc bị “mất tích !?”.
Nhằm mục đích tạo căm thù trong lòng nhân dân Việt nam, sẳn sàng gia nhập lực lượng Việt minh, Hồ chí Minh khiêu khích thực dân Pháp rồi cùng đồng bọn cán bộ cao cấp bỏ chạy, trốn sâu vào rừng biên giới Tàu Việt chịu sự bảo hộ của Mao trạch Đông và dựng căn cứ an tòan hưởng lạc nghe tên rất là “kháng chiến” là hang Pắc Pó Trong thời gian nầy Hồ-chí-Minh được đảng cộng sản biệt phái cho một nữ hộ lý rất trẻ và đẹp tên là Nông thị Phác Hồ chí Minh lợi dụng chức quyền bèn tạo ra lý do cần phải “kềm cặp” huấn luyện chũ nghĩa cộng sản cho cô hộ lý với danh xưng là chú Minh và cháu Trưng. (Trưng là tên của Nông thị Phác do Hồ chí Minh đặt lại) Sau thời gian được chú Minh “kềm cặp” thì cô cháu Trưng sinh cho chú Minh một Hồ chí Minh con gọi là Nông đức Mạnh, và thế là người “đồng chí thân thiết” vĩnh viễn ra đi không hẹn ngày về.
e-Hồ chi Minh kẻ đê hèn bất nhân: Hồ chí Minh vốn là tên tham dục, nhưng lại phải đóng vai tiên ông đạo cốt. Đàn bà là nhu cầu khẩn thiết của Hồ chí Minh. Lần nầy đảng CSVN cử cô Nông thị Xuân (còn có tên là Nguyễn thị Xuân) mới khoảng độ 18 tuổi gốc người Tày tuy nhiệm vụ là làm cán bộ hộ lý, nhưng thực chất là thỏa mãn sinh lý cho Hồ chí Minh. Kết quả sau những lần “hộ lý” cô bé Nông thị Xuân lại “sản xuất” ra cậu Nguyễn tất Trung cho ông Nguyễn tất Thành. Khi cô hộ lý Nông thị Xuân muốn trở thành bà Hồ chí Minh đệ nhất phu nhân của nuớcViệt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thì một vụ án mạng xảy ra dưới màn kịch tai nạn bị xe cán chết mà nạn nhân chính là bà Nông thị-Xuân với tài đạo diễn của Ủy Viên Bộ Chính Trị đảng cộng sản Việt Nam đương kim Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ Trần quốc Hoàn Trước khi hạ sát, Hoàn đã “thực tế, thưởng thức” đóa hoa hương sắc thuộc dân tộc Tày. Bởi vậy mới có câu hỏi sau đây:
Tên nào hay lừa đàn bà?
Là bác của đảng, cáo Hồ chứ ai!
Mở miệng: nói thánh, nói tài,
Vì dân, vì nước cả đời độc thân.
Dâm ô độc ác bội phần,
Con rơi, vợ rớt bác cần dấu che.
Già không chừa, trẻ chẳng tha,
Lơ-mơ là bác dí cha bác vào.
Hay :
Hồ-chí-Minh, con quỷ râu xanh,
Thấy gái nhà lành, Hồ chẳng buông tha.
“Kách-mệnh” vén váy đàn bà,
Sở Khanh số một, ba hoa cùng mình.
Bác già mà được anh minh,
Là nhờ mấy chiếc lá đa xập xình.
Hoặc:
Ðảng ta nhờ có Bác Hồ,
Khiến cho cả nước tô hô sự đời.
Áo quần rách rưới tả tơi,
Thằng cu, cái hĩm đứng ngồi lộ ra.
Bác Hồ quen thói khỉ già,
Ði đâu dê đó đàn bà ớn luôn.
Chiến khu, Người ở trong hang,
Lá đa sơ hở là “ Người” bợ ngay.
Kể sơ có mấy thị nầy:
Tuyết-Minh, thị Lạc, Thái Tày tùm lùm.
Còn thêm Minh Khai, Lum Sam.
Đời Hồ toàn chuyện um tùm lá đa.
Ðiều thú vị là người dân dùng kỹ thuật tách rời chữ cuối danh từ kép, tên những tỉnh miền thượng du cao nguyên Trung phần để biến thành động-từ diễn tả hành vi tham dục của Hồ-chí-Minh như sau:
Bác Hồ khoái tới “Ban-Mê-
Thuộc” xong một phát bác tê tới trời.
Bao nhiêu huyền thoại vẽ vời,
Bác mà đứt bóng, rồi đời đảng ta.
Bác rằng: Tuy bác có già,
Bác chọi còn khỏe, tình còn phây phây.
Bác còn ham đến “Pờ-lây
Ku” thèm “me” đến ngất ngây đất trời.
Hồi xuân, rạo rực tìm tòi,
Ðêm mơ ngày tưởng, “sự đời” khát khao.
Thị Hến, thị Nở – cào cào,
Bác rên, bác mớ, Bác trào tùm lum.
Ðảng bèn đưa bác về “Kum
Tum” càn một phát, thỏa thuê bác cười.
Những chữ được tách rời như “ thuộc, ku, me, tum” từ những tên Ban-mê-Thuộc, Playku, playme, kun-tum .
Riêng câu : Thị Hến, thị Nở – cào cào, là tên hai nhân vật nữ; Một đuợc xem là đẹp, hấp dẫn (thị Hến) và một rất xấu (thị Nở) trong hai tác phẫm Ngao, Sò, Ốc. Hến – tuồng cải lương; (không biết tên tác giả) và Chí-Phèo của Nguyễn-công-Hoan) .
5./ Hồ-chí-Minh là tên Việt-gian:
Hồ-Chí-Minh tên hành nghề Việt gian chuyên nghiệp vì y đã từng là:
a/ Nhân-viên thuộc Bộ Ðông-Phương-Vụ: Hồ chí Minh đã từng là cán bộ phục vụ tại Bộ Đông Phương Vụ là một tổ chức tình-báo của Nga sô nhắm vào các nước Trung Hoa, Triều-Tiên, Việt-Nam, Cam bốt, Lào, Thái-Lan.
b/ Nhân-viên của Nam Phương Cục: Nam Phương Cục là một tổ-chức tình báo của Trung-cộng mà địa bàn là Việt-Nam, Cam-bốt, Lào, Thái-Lan.
c/ Mật báo viên cho Thực-dân Pháp với nhiệm vụ nầy, Hố chí Minh đã cùng thực dân Pháp bắt nhà Chí-sĩ Cách-Mạng Phan bội Châu để đuợc thực dân Pháp trả công cho là 150.000 quan Pháp.
d/ Nhân-viên của cơ quan S.S.O. Hồ chí Minh cũng từng là điễm chỉ viên cho cơ quan tình báo S.S.O tiền thân của C.I.A Hoa Kỳ hiện nay.
6./ Hồ-chí-Minh là tên tay sai cho giặc:
Hồ-chí-Minh nhận chỉ thị và thi hành các kế-sách nhằm mục đích triệt để thủ-tiêu mọi năng lực đối kháng, tiềm ẩn trong tinh thần truyến thống bất khuất của Dân-Tộc như:
a-Tiêu diệt sinh mệnh dân tộc bằng hình thức thuộc pháp lý: Qua các cuộc đấu tố, cải cách ruộng đất, nông công thương nghiệp, kinh tế, thuế khóa...làm cho Dân tộc Việt-Nam ngày càng điên đảo vì đói nghèo, ngu dốt và hèn hạ hầu chúng để đặt ách thống trị, bóc lột máu xương, mồ hôi nước mắt mà không sợ sự phản kháng chống đối của nhân dân.
b-Phục vụ cho quyền lợi của ngoại bang: Làm tên tay sai thực hiện chũ nghĩa bành trướng cộng sản quốc tế bằng cách áp đặt lên dân tộc chũ thuyết Karl Marx. Bắt nhân dân phải tôn sung những tên lãnh tụ đỏ Lenine, Staline, Mao trạch-Ðông. Làm tên lính xung kích đánh thuê cho đế-quốc Nga, Tàu mỡ rộng thuộc địa. cho chúng
7/ Hồ-chí-Minh là tên bán Nước:
Ngoài các tội dám lấy ngọn núi, con sông của Tổ Tiên đặt tên cho Marl, Lenin. Khi chết, Hồ chỉ xin được theo hầu các lão ngoại nhân ấy! HCM và đồng bọn còn mang trên đầu tội mãi-quốc.
Cụ thể là:
a/ Sau khi ký Hiệp ước Sơ-bộ 6.3.1946 Hồ-chí-Minh đến thăm cụ Nguyễn-Hải-Thần tại trụ-sở Việt-Nam Ðồng-Minh Hội trên đường Quan-Thánh có sự chứng kiến của Cụ Xuân-Tùng nhà Cách-Mạng và Nguyễn-Lương-Bằng, Nguyễn-duy-Trinh thuộc hạ của Hồ-Chí-Minh, Cụ Nguyễn-Hải-Thần to tiếng mắng Hồ rằng :” Mả nhà anh để ở móng chân voi “ sau đây là cuộc “thi thoại” giữa Hồ chí Minh và cụ Nguyễn Hải Thần:
Hồ-chí-Minh ngỏ ý chẳng thà thua giặc Pháp còn hơn là bị mang tiếng thùng rổng hay mười voi không có chút nước xáo:
Thà chịu bàn cờ thua nước ngựa,
Còn hơn miệng thế mỉa mười voi
Và Cụ Nguyễn-Hải-Thần đáp lại:
Cờ tàn mới thấy người cao thấp
Chớ có như ai cá thấy mồi.
(Cao-Thế-Dung – Chân tướng Hồ-chí-Minh)
b/ Ngày 14.9.1958 Hồ chí Minh chỉ thị cho Phạm-văn-Ðồng nhân danh Thủ-Tướng Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hòa gởi công-hàm đến cho Chu-ân-Lai Tổng-lý Quốc-Vụ-Viện (thủ tướng) Trung Cộng công-nhận quyết-định về hải phận và hai quần đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa là của Trung-cộng.
Việt cộng cõng rắn vào nhà,
Cắn cả heo, chó, vịt, gà lẫn dân.
Hồ sao độc ác vô tình,
Hồ quên tất cả, chỉ lo tới mình
Tổ tiên Hồ cũng lặng thinh
Phản dân hại nước, cầu vinh với người.
XI.- Nhận định về lòng dân :
Hồn thiêng Sông Núi thúc đẩy bánh xe lịch sử chuyển động. Tổ tiên đã truyền mệnh lệnh. Mệnh lệnh được nghe rõ ràng bằng tâm ý yêu thương Quê-hương, xót xa thân phận giống nòi. Hãy cùng nhau nghe Tổ-Quốc ban lệnh cứu dân cứu Nước:
Thần Quy rẽ sóng nổi lên,
Lệnh truyền: Dân Việt Xóa tên Cộng Hồ!
Gươm thần tỏa ánh sao sa,
Chém tung xiềng xích tôi đòi Mác, Mao.
*
Linh Quy là của Dân Ta,
Tuốt gươm cứu Quốc trừ ma diệt tà.
Rồng Tiên là Mẹ là Cha,
Giúp con gìn giữ quê-hương giống nòi.
Cộng Sản gian ác hẹp hòi,
Quỳ lạy Mao, Mác; coi thường Tổ tiên!
Và :
Yêu Dân ta diệt giặc Hồ,
Tìm ra đường chính để về Quê-Hương.
Ta về vườn ruộng thênh thang,
Tình làng nghĩa xóm, chứa chan ân tình.
Ðảng Hồ đã dẹp tan tành
Hương quê tỏa khắp Giang San mọi nhà.
Em về trồng mướp trồng cà,
Anh về làm ruộng, dựng nhà chung vui.
Ước mơ chỉ bấy nhiêu thôi,
Chén trà ly ruợu, mời người thân thương.
Ta mơ một kiếp bình thường,
Vui cùng miếng ruộng, thửa vườn của ta!
Toàn dân chỉ một niềm mơ:
Mao, Hồ hết ngự bàn thờ Ông Cha.
Cờ Vàng phất phới hoan ca,
Sài-Gòn đổi lại, thiết tha lòng người.
Huế nghiêng nón lá mĩm cười,
Hà-Nội làm dáng, mỹ miều Việt-Nam.
Trong cuộc sống, triết lý phản phục luôn nhắc nhở con người đừng qúa lạc quan hoặc bi quan. Như trong sum họp đã ẩn hiện dấu hiệu của sự chia ly; như trong ánh nắng gay gắt đã có mầm của gió mưa giá lạnh.
Sự phản phục nầy còn là sự cảnh báo cần thiết cho bọn ác quyền cộng sản VN về một cuộc báo thù sẽ giáng lên dầu bọn chúng:
Đừng thấy hùm ngủ mà vuốt râu,
Đến khi hùm dậy, đầu lâu chẳng còn.
Lòng dân đã dứt khoát:
Chừng nào Cộng Sản ra tro,
Lăng Hồ phá sập, ấm no lại về.
Riêng Anh chỉ một lời thề:
Ðấu tranh hết Cộng, mọi bề mới yên
Muốn giựt sập chế-độ Cộng-sản, trước hết phải tố cáo, phơi trần, vạch mặt đảng CSVN; nơi tập trung toàn những tên bất-lương. Tội đồ HCM, đang là chiếc phao cứu mạng cho băng đảng Mafia đỏ Việt-Nam. Ðánh ngã thần tượng dỗm HCM là chiếc phao bị lủng và đảng CSVN chỉ còn một lối duy nhất là vào bãi tha với lời vĩnh biệt, dứt khoát không có ngày tái ngộ:
Trên tám mươi triệu dân ta đánh giặc,
Tám mươi triệu người vạch mặt cáo Hồ.
Thấy Hồ ta quyết không tha,
Ðánh cho Hồ thác, đánh cho đảng nhào.
Hay:
Ðạp cho bể mặt Hồ ra.
Nhổ vào huyền thoại, ném Hồ vào “bô”.
Và :
Lấy than ta bôi mặt Hồ,
Lấy đá ta chọi, lấy cờ xé đi.
Lấy dao ta chém đảng lì,
Toàn dân bôi chém đảng đi nhị tì!
Hãy nghe ý chí quyết liệt và lòng sục sôi căm hận của nhân ba Miền Việt-Nam:
Ðạp Hồ rớt xuống cầu Bông,
Ngang qua cầu Kiệu lại đâm già Hồ.
Diệt Hồ như diệt yêu ma,
Cuốc cho vở sọ đảng Hồ mới thôi.
*
Ðánh Hồ tại chợ Ðông Ba,
Hồ khóc, Hồ chạy cầu xin đại-đồng.
Chận Hồ đánh tại bến sông,
Hồ té chổng cọng, cầu mong ơn trời.
*
Ðánh Hồ từ giãi sông Hồng,
Ðánh tới Ba-đình, xông thẳng vào lăng.
Tay cầm ý chí khăng khăng,
Hồ tan sông núi rạng ngời hoa đăng!
Ngày xưa Cộng-sản dùng đói nghèo, khiếp sợ để cai trị. Vì không có phương tiện truyền thông nên thế giới không thể biết những gì đã và đang và sẽ xảy ra sau bức màn sắt.
Ngày xưa. Thế giới im lặng vì sợ mang tiếng ”can thiệp vào nội bộ của nhau” nên người dân đành cam chịu bọn cầm quyền bức hiếp. Những ưu thế ấy đã giúp đảng CSVN tồn tại.
Nhưng hôm nay Nhân loại đã đổi thay, sẳn sàng can thiệp khi có tiếng kêu thãm khốc, các phương tiện thông tin hữu hiệu làm nhân loại gần nhau hơn, và CSVN mất dần sức mạnh, nhờ vậy, Nhân dân Việt Nam có điều kiện để liên kết trong và ngoài nước theo thế liên hoàn với chiêu pháp “Trong Ðánh Ngoài La” hay “Tùy cơ ứng biến, Gặp đâu đánh đó” :
Ðánh Hồ chẳng thấp, chẳng cao,
Tiện đâu đánh đó như trào nước lên.
Ðánh cho Hồ đảo, Hồ điên,
Ðánh cho chí tử chiêu liền liền tay.
Giáp công biến hóa đổi thay
Cộng Hồ khiếp sợ đòn nầy của dân.
Giặc thù ngán nhất hợp quần,
Nội công, ngoại kích đâu cần lợi danh.
Và:
Ðánh Hồ đảng Cộng phải run,
Cái phao đảng bám, chẳng còn là phao.
Phao xì, phao rách, phao tiêu,
Ðảng Cộng sẽ phải như diều đứt giây.
Nhận-định sau cùng của toàn dân là:
Hồ-chí-Minh, tên chết bầm,
Ðảng cộng đem ướp, thúi rầm hôi tanh.
Cùng nhau ta đánh cho nhanh,
Ðánh cho Hồ đảng tanh bành mới thôi.
XII Đảng công sản chủ trương làm hèn hóa con người:
A/ Phản ứng của giới trí thức lớn đối với CSVN
Thật ra, chúng ta cũng khó định nghĩa thế nào là trí thức lớn. Trong quan niệm chung thì thì Trí thức lớn là những học giả vừa có khoa bảng vừa có nhân cách. Với quan niệm nầy, chúng tôi chỉ xin sơ lược lại thân phận của bốn nhà học giả mà theo chúng tôi là những nhà trí thức lớn , sau Hiệp định Geneve chia hai đất nuớc và họ ở lại miền Bắc.
Những bậc danh tài trí thức nầy đã bị đảng cộng sản Việt Nam đày đọa, có vị bị tha hóa, có vị âm thầm nhẫn nhục và cũng chết trong âm thầm. Đảng cộng sản đã triệt tiêu nguyên khí quôc gia, đó cũng là một trong những tội ác tày đình của đảng cộng sản đối với tổ quốc Việt nam.
: 1/ Nhà Cưu Học cụ Phó Bảng Bùi Kỷ:
Cụ Bùi Kỹ đỗ Phó Bảng vào thời kỳ Nho mạt, cụ hoạt động thiên về lãnh vực văn hóa. Cụ đã từng dạy Hán học và Quốc văn tại những trường lớn, cụ là tác giả tập “Quốc văn Cụ Thể”và hợp sọan với cụ Trần Trọng Kim mấy bộ sách như “Việt Nam Văn Phạm” và hiệu khảo “Truyện Thúy Kiều” Cụ còn cộng tác với tạp chí Nam Phong, Khai Trí Tiến Đức, Trung Bắc Tân Văn và cụ dự định cho xuất bản thi tập “Ưu Thiên Đỗ Mặc”. Cụ chọn huớng đi là chỉ phục vụ trong địa hạt văn học.Cuối thập niên 1930, với hòan cảnh lịch sử đất nuớc cụ tỏ ra yếm thế. Chúng ta hãy nghe cụ “tâm sự”cùng với thi hào Nguyễn Du.:
Kiếp kim cổ tài tình là bận,
Hồn văn chương vơ vẩn non sông
Xót thay, nước đục bụi trong
Nghìn thu biết tỏ tấm lòng cùng ai!
Chia nổi đọan truờng với Vuơng Thúy Kiều:
Muốn trong sạch mà đời nhem nhuốc
Quá khôn ngoan nên buớc lỡ làng
Ấy ai bảy thước ngang tàng
Đến chìm nổi cũng bẽ bàng như ai.
Và cụ cũng quyết rời chân ra ngòai chuyện thị phi thế sự:
Lờ đờ trắng mắt đời không bạn
Lận đận đận đầu xanh, tuổi sắp già
Hay cụ buông tiếng thở dài:
Hơn kém ở đời vinh với nhục
Nhục vinh rồi cũng hóa ra ma.
Một nhân cách như thế, nhưng chỉ sau khỏang năm, sáu năm dưới sự kềm kẹp khắc nghiệt độc ác của đảng cộng sản Việt Nam, cụ đành phải tha hóa. Câu chuyện tha hóa của cụ Bùi Kỷ xin đuợc tóm lược như sau:
Năm 1960 trong một bản tin của đài phát thanh cộng sản tại Hà Nội nghe được tại Sài Gòn. Theo bản tin nầy thì nhân ngày kỷ niệm lần thứ 36 ngày nước Mông Cổ trở thành nuớc thứ hai trong phe xã hội chủ nghĩa do Liên xô lãnh đạo. Ban lãnh đạo cộng sản VN sẽ thành lập phái đoàn do Hồ chí Minh đích thân hướng dẫn đến dự lễ tại Ohlan Bator thủ đô Mông cổ. Riêng tại Hà Nội đảng cộng sản VN cũng long trọng tổ chức buổi lễ đặt dưới sự chủ tọa của Thủ tướng cộng sản Bắc Việt Phạm văn Đồng, cùng tham dự phía quân đội cộng sản có Võ nguyên Giáp, cụ Bùi Kỷ tham dự với tư cách đại diện chủ tịch đoàn Mặt Trận Tổ Quốc đồng thời cũng là đại diện cho giới trí thức cựu học. Cụ Bùi Kỷ “hân hạnh” được đứng sau lưng Tôn đức Thắng và Hạ bá Cang. Thế là hình ảnh nhân vật trí thức danh sĩ bất màng danh lợi phú quý từ lâu đã chiếm đuợc sự khâm phục của nhân dân, hình ảnh Sĩ Phu Bùi Kỷ phút chốc rã rụng tơi tả. Sau bản tin ầy thì một người rất trẻ, không ký tên, từ lâu khâm phục tinh thần “kẻ Sĩ” Bùi Kỹ có làm bài thơ khá dài gởi ra tòa soạn báo Nhân Dân. Nhưng vì nội dung bài thơ khá nặng lời, e rằng sẽ không đến được tay “kẻ Sĩ” Bùi Kỷ nên ông Hà Thượng Nhân người phụ trách mục “Đàn Ngang Cung” của nhật báo Tự Do tại Sài Gòn cho đăng lại và tin rằng bài thơ sẽ đến được tay cụ Bùi Kỷ. Bài thơ ấy xin được chép lại như sau:
Cháu vừa nghe tin đài Hà Nội ,
Thấy phỉ quyền tâng đội giặc Mông,
Mừng ngày Mông cộng thành công.
Cả lò Việt cộng hót không tiếc lời !
Hồ đã đến tận nơi triều bái,
Vẫn còn lo chưa giãi hết lòng,
Phải bầy thêm ở Thăng Long
Một đàn bái vọng mới xong chuơng trình.
Đại diện Hồ chí Minh vắng mặt,
Bác đã cùng Đồng, Giáp đi ngay.
Lễ nghi khen khéo đặt bày,
Cúi đầu gọi giặc là thầy, nhục chăng?
Như Đồng, Giáp hai thằng quỷ đỏ,
Phường vô tri không bõ phẩm bình.
Chỉ riêng căm giận tiên sinh,
Cũng từ cửa Khổng, sân Trình xuất thân,
So Sĩ tịch đã chân Khoa Giáp,
Lại xuân thu, tuổi hạc thêm kiêu,
Tưởng đâ khôn biết đủ điều
Mà đường phải trái ra chiều chưa thông!
Kìa sử chép: giặc Mông thuở trước,
Vốn là quân xâm lược hung tàn
Thừa cơ trúc chẻ, ngói tan,
Tính đuờng xâm chiếm giang san nước mình.
Gây ba đợt đao binh khốc liệt,
Khiến cho nòi giống Việt điêu linh,
Quân dân bao kẻ bỏ mình,
Núi sông chất chứa bất bình vì ai?
Nếu Hưng Đạo kém tài thao lược,
Hỏi nhà Nam đất nuớc còn không?
Đàng Giang máu chửa phai hồng
Chương Dương, Hàm Tử - xương chồng ngất non .
Hịch Tướng Sĩ hãy còn văng vẳng,
Thù thấu xương sao chẳng ghi lòng?
Nhục thay! Giòng dõi Tiên Rồng,
Cúi đầu lay lục giặc Mông cho đành!
Phường lang sói tôn thành thầy, bạn,
Giống vô loài phản bội Ông Cha!
Bác theo đuôi lũ Hồ già,
Thiên lương, sĩ khí tiêu ma mất rồi!
Cháu nghe tin, máu sôi sùng sục,
Tiếc cho ai, tủi nhục cho ai,
Bấy nay, một giấc mê dài,
Uốn lưng Khoa Giáp theo loài lưu manh.
Vì tham sống, mà đành nhẫn nhục,
Hoặc tuổi già, tâm phúc hôn mê,
Thì thôi, câm quách một bề
Còn hơn lơ láo, vai hề Việt gian.!
Cha cháu dạy: Ngọc tan, còn trắng,
Trúc dù thiêu, gióng thẳng vẫn nguyên,
Anh hùng gặp bước chuân truyên,
Kiên cường bất khuất, uy quyền khôn lay.
Vì một tấm lòng ngay dám chết,
Chết thì đành , biến tiết thì không,
Noi gương kẻ Sĩ phương Đông,
Cúi không thẹn đất, ngẩng không thẹn trời.
Cháu khăn khắn nhớ lời gia huấn,
Nửa đời người cùng quẫn, long đong,
Trăng thu vằng vặc soi lòng,
Bụi trần không bợn nho phong nếp nhà.
Nay thấy bác, tuổi già lẫn cẫn
Chịu thua lừa mắc lận con buôn,
Hùa theo thủ đoạn chui luồn,
Để nhơ Quốc Thể, để buồn Sĩ Lâm…
Tóc dựng mũ, khôn cầm căm tức,
Thảo Tâm Thư, một bức đệ trình,
Thét to lên nỗi bất bình,
Trước Người Quốc Sĩ phụ tình Núi Sông.
Sao sợ chết? Ai không phải chết?
Sĩ phu mà khí tiết thế ư?
Thẹn cho giòng giõi thi thư,
Phạm Nhan, Lê Tắc xem như một phuờng!
Theo Mông cổ, kìa gương tày liếp,
Nhục đời đời, kiếp kiếp nào phai!
Khoa danh, vũ lược, văn tài,
Còn chăng một tiếng cười dài ngàn sau…
Nam bắc một nhịp cầu ngăn cách,
Mượn tờ thư bộc bạch nỗi lòng:
Bác ơi, xét lại cho cùng,
Suối vàng chớ để thẹn thùng Ông Cha!....
Ba tháng sau, cũng trên báo Tự Do. Mục tin Miền Bắc do Cô Thần phụ trách cho hay cụ Bùi Kỷ đột ngột qua đời. Theo nguồn tin riêng thì cụ Bùi Kỷ sau khi đọc bài thơ nầy bị chết ngất và vĩnh viễn không tỉnh lại.
(Trích từ “Giai thoai văn chuơng của Nguyễn Đông Thành)
Cũng giống như cụ Hùynh Thúc Kháng khi biết bị cộng sản lừa và cụ đã uất máu và lâm trọng bịnh rồi từ trần (Trường hợp cụ Hùynh thúc Kháng hơi khác, cụ bị lừa khi cụ giữ chức Chủ tịch nuớc tạm thay cho Hồ chí Minh đi Pháp và xảy ra vụ án đường Ôn Như Hầu và cụ Huỳnh hoàn tòan không hay biết, còn cụ Bùi Kỷ thì quá rõ ràng. Nhưng cụ vẫn dự lễ, vẫn chịu đứng sau lưng Phạm văn Đồng, Võ nguyên Giáp. Tôn đức Thắng, Hạ bá Cang.)
2/ Nhà trí thức Luật sư Nguyễn Mạnh Tường: Cụ Luật sư Nguyễn Mạnh Tường là một trong rất ít nhà trí thức Việt nam đậu luật sư tại Pháp. Với tấm lòng tha thiết với quê hương, Cụ nghe lời phỉnh gạt của Hồ chí Minh. Cụ quyết tâm mang sở học về phục vụ, nhưng Hồ chí Minh vừa là tên gian manh thủ đoạn, ganh ghét người học cao, vừa là tay cao thủ chuyên viên lừa gạt giới trí thức. Gạt được thành phần trí thức nầy Hồ chí Minh vừa được tiếng là kẻ chiêu hiền đãi sĩ, giúp cho tổ chức do Hồ lãnh đạo có nhiều khuôn mặt trí thức, đồng thời có cơ hội ngăn chận được giới trí thức nầy không còn có cơ hội lãnh đạo quần chúng tranh giành quyền lực. Nhưng khi những nhà trí thức nầy theo về, thì Hồ chí Minh chỉ đặt cho một chức vụ không quyền hành, không trách nhiệm kiểu “ngồi không xơi nước lạnh” và cụ Luật sư Nguyễn Mạnh Tường ở vào trường hợp nầy. Những ý kiến. đề nghị của cụ, chẳng bao giờ được Hồ chí Minh tham chiếu. Năm 1956 cụ có tham gia vào phong trào Giai phẫm và Nhân Văn, nhưng vì cụ quá nổi tiếng nên Hồ chí Minh không dám mạnh tay. Hồ chí Minh đã “khai tử” một bậc trí thức tài năng kể từ khi Hồ chí Minh dụ được cụ. Khoảng năm 1992, khi đảng cộng sản VN tuyên bố chính sách mở cửa và do một nhân vật của Pháp mời, cụ đuợc sang Paris ít lâu. Khi trở về lại Hà Nội, cụ viết quyển “KẺ BỊ KHAI TRỪ”. Nhà trí thức Nguyễn Mạnh Tường mãi tới năm 82 tuổi mới dám nói :”Tôi đã 82 tuổi rồi, tôi còn sợ gì?. – 82 tuổi nghĩa là gần chết mới hết sợ! Ôi câu đáng đáng ghi vào lịch sử tội ác cộng sản Việt nam..
3/ Nhà trí thức Triết gia Trần Đức Thảo: Cũng giống như cụ Nguyễn Mạnh Tường, nhưng cụ Trần Đức Thảo là một triết gia. Một triết gia độc nhất Việt Nam nghe nói đã từng tranh luận với triết gia Pháp Jean Paul Sartre và được người ngoại quốc kính nể, lại không được dùng đúng chỗ ở chính trên quê hương mình.. Phải biết rằng chính cụ cũng đã mê Marxism khi còn ở Paris cho nên cụ đã xin về Việt Nam để phục vụ đất nước trong công cuộc kháng Pháp và xây dựng thiên đàng cộng sản. Về đến nơi thì than ôi! Thiên đàng công sản chính là bao cảnh tang thươn, áp bức, bất công và đày đọa. CSVN đã biến quê hương VN thành địa ngục trần gian. Thất đáng thương cảm ngậm ngùi cho thân phận trí thức lạc lòai giữa đám vô lại thảo khấu. Cũng khoảng năm 1992 CSVN có cử cụ Trần Đức Thảo sang Pháp. CSVN lợi dụng uy tín của cụ để vận động các nhà trí thức Pháp ủng hộ cho chúng. Trong một buổi thuyết trình trước nhiều loại thính giả, cụ Trần Đức Thảo đã bảo rằng :
- Chính Marx sai.
Có người hỏi:
- Tại sao?.
Cụ Trần giải thích:
- Mác lấy các điểm trong duy tâm luận của Hégel làm ra duy vật biện chứng. Duy tâm áp dụng trên trời có sai cũng không hại ai, còn duy vật đem ra áp dụng trên mặt đất sẽ làm chết người.
4/ Baùc-só Nguyeãn-Khaéc-Vieän: sau khi ñaäu Tieán-Só Y-khoa taïi Phaùp oâng theo Hoà-chí-Minh veà nöôùc ñeå xaây döïng xaõ hoäi theo chuû nghóa Karl Marx nhaân dòp Hoà-chí-Minh qua Phaùp vaøo thaùng 5.1946. Sau gaàn 50 theo ñuoåi “lyù töôûng coäng-saûn”, oâng ñaõ tænh ngoä. Thaùng 6.1993 Baùc-só Nguyeãn-Khaéc Vieän keâu goïi: Haõy cuøng nhau böôùc vaøo moät cuoäc khaùng chieán môùi nhö sau: ”Nay phaûi döïng neân moät Maëït-traïân daân-toäc, nhaân daân, quoác teá roäng hôn, tieán haønh moät cuoäc khaùng chieán môùi laâu daøi hôn, ña daïng hôn. Môùi mong haïn cheá ñuôïc tham nhuõng, baûo veä ñöôïc moâi tröôøng, giaûm nheï baát coâng xaõ hoäi, phaân hoùa giaøu ngheøo, giöõ gìn ñöôïc thuaàn phong myõ tuïc, phaùt huy tình ngöôøi, toân troïng quyeàn phuï nöõ, treû em, caùc nhoùm thieåu soá...” (trích töø “Chia Tay yù thöùc heä” cuûa Haø-Só-Phu
B/ Giới trí thức theo lầm theo đảng CSVN từ những ngày đầu:
Ai cũng biết Nhóm Nhân Văn Giai Phẩm gồm toàn những văn nghệ sĩ ưu tú của dân tộc đi kháng chiến 9 năm trở về Hà Nội, hãy còn chân ước chân ráo đã quay ra chống Đảng quyết liệt: Hoàng Cầm, Văn Cao, Phùng Quán, Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt. Phần lớn là đảng viên. Thế có lạ không?
Tại sao họ không yêu Đảng của họ nữa? Hỏi tức trả lời vậy
Chúng ta nghe những nhà trí thức chân chính lên tíếng:
1/ Phan Khôi: khinh thị CSVN:
Làm sao cũng chẳng làm sao,
Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi.
Làm chi cũng chẳng làm chi,
Dẫu có làm gì cũng chẳng làm sao.
2/Trần Dần nhận-định :
Tôi đi giữa lòng Hà-Nội,
Giữa phố không người,
Chỉ thấy mưa sa, trên màu cờ đỏ.
Và Trần Dần xót xa :
Tôi thương những Chân trời không có Người,
Và những Người không có chân trời !
3/ Phùng-Quán quyết liệt :
Yêu ai cứ bảo rằng yêu,
Ghét ai cứ bảo rằng ghét.
Dù ai ngon ngọt nuông chìu,
Cũng không nói yêu thành ghét .
Dù ai cầm dao dọa giết,
Cũng không nói ghét thành yêu.
...Ðường mật công danh,
không làm ngọt được lưỡi tôi,
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngả.
Bút giấy tôi ai cướp giựt đi,
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá!
Cuối cùng, chúng ta hãy nghe những cán bộ chủ chốt cao cấp VC đã và đang sống trong xã hội Cộng-sản; họ đã từng được bọn cầm quyền Việt-cộng ưu ái trọng vọng. Họ là nhà văn, nhà báo, tướng lãnh, nhà nghiên cứu khoa học phát biểu sự chọn lựa của họ:
4/Vuõ-Ñình-Huøynh: nguyeân laø bí thö cho Hoà-chí-Minh, Vuï-tröôûng Vuï Lễå-Taân, gaàn cuoái ñôøi ñaõ tænh ngoä vaø ñeà nghò:” Muoán cho daân-toäc ta khoâng thua keùm caùc nöôùc khaùc, muoán cho ñaát nöôùc ñöôïc thònh vöôïng, daân ta khoâng ngheøo khoå maõi thì khoâng theå thieáu moät ñieàu kieän tieân quyeát: aáy laø phaûi gaït boû söï laõnh ñaïo cuûa ñaûng coäng-saûn”
(Vuõ-Thö-Hieân – Ñeâm giöõa ban ngaøy)
5/ Nguyeãn-vaên-Traán töøng laø Phoù xöù uûy Nam kyø, Daân bieåu quoác hoäi Vieät coäng:”Toäi-aùc cuûa cheá ñoä naày (cheá-ñoä coäng-saûn) töø 40 naêm nay, thaät noùi khoâng heát
( Nguyeãn-vaên-Traán “Vieát cho Meï vaø Quoác-hoäi”).
6/ Trung-Tướng VC Trần-Ðộ:
Một bộ phận lớn đảng viên, trước hết là trong số đảng viên có chức quyền, nắm quyền lực, đã thực sự trở thành lực cản đối với sự phát triển mọi mặt của đất nước.
Và:...để thoát khỏi tình trạng nặng nề hiện nay và bảo đãm cho tương lai sáng sủa của đất nước, thì một điều cơ bản, một điều then chốt , một điều quyết định là phải thực sự dân chủ hóa, thực sự thực hành dân chủ dể cho nhân dân có quyền lực thực sự trong khi thực hiện quyền lợi và trách nhiệm của mình (Trung-tướng VC Trần-Ðộ trong lá thư gởi đảng CSVN năm 1997
7/ Nhạc sĩ Văn Cao; vừa mới qua đời. Trước khi nhắm mắt, ông nói:
-Bây giờ tôi không còn sợ nữa. Tôi cứ nói… “Tố Hữu đã ‘phạt’ tôi 30 năm không sáng tác gì được!”
Đau đớn nhất trong đời ông là năm 1994, trong một buổi lễ phát phần thưởng về Âm Nhạc, ông được xếp hạng 13!
C/ Những người từng hưởng ứng tham gia cuộc chiến do CSVN lãnh đạo:
a./ Nhà văn Dương-Thu-Hương :
Khi vào đó ( tức là vào miền Nam ) thì tôi hiểu rằng cái chế-độ của kẻ chiến thắng (tức chế độ Cộng-Sản) là một chế độ man rợ...phe mà mình đi theo, thực chất mà nói đó là mô hình của một xã-hội man rợ, thiếu dân chủ “
(Nhà văn Dương-thu-Hương trả lời phỏng vấn đài phát thanh Á Châu Tự-Do (RFA) nhân kỹ niệm 25 năm ngày Hà-Nội cưỡng chiếm được niềm Nam).
b/ Nhà thơ Bùi-Minh-Quốc:
Một trong những Nhà thơ đòi hỏi Tự do Dân chủ ở trong nước . Ông bị bọn chóp bu khai trừ ra khỏi đảng vào cuối thập niên 80, bị quản thúc tại gia từ 1997 – 1999. Vào khỏang tháng 1/2000 ông ra tận biên giới để quan sát, thu thập tài liệu và công bố những sự kiện về hiệp định dâng đất của CSVN cho cộng sản Tàu, lần nầy ông bị phỉ quyền Hà-nội bắt giam và quản thúc tại gia thêm một lần nửa.
Phản Chiến
Tổ quốc trong anh, máu thấm tận nguồn
Tổ quốc chúng gào đầu lưỡi
Hãy cảnh giác!
Khi anh đầm mình trong máu me trận mạc
Chúng đưa con đi du học nước ngòai
Rúc kín lâu đài du hý trên ngai
Hãy cảnh giác
Bọn mặt bự dẻo mồm
Thời nào cũng nhân danh Tổ Quốc
Cao gịong hùng hồn không tiếc máu xương
Máu xương lầy đỏ nghiệp đế vương
Hãy cảnh giác
Sau chiến tranh, chúng lại chiến tranh
Cuộc chiến tranh một phía
Người sống sót trở về oằn lưng sưu thuế
Chúng lấy máu đúc vàng
Ðộc quyền ngự trị vênh vang
Ðộc quyền nghĩ
Ðộc quyền nói
Ðộc quyền ráo trọi
Dân đen chỉ được quyền...đói
Và thêm nữa là quyền sợ hãi
Triền miên...
Hãy cảnh giác !
Lòng ta yêu vô cùng Tổ Quốc
Chúng luôn moi làm bẩy đánh lừa
Sập lại chính đời ta
Ðến cả cháu ta
Vào kiếp chó
Canh túi vàng cho nó !
Bùi Minh Quốc
d./Nhà khoa-học Hà-Sĩ-Phu: (tức Nguyễn-Xuân-Tụ) Từ bỏ ý thức-hệ độc tôn ngoại lai (tức chủ nghĩa Cộng-sản) là điều kiện thiết yếu để xóa bỏ hận thù, góp sức, chung lòng đưa đất nước phát triển
(Hà-Sĩ-Phu – Chia tay Ý-thức-hệ)
D/ Những trí thức trẻ được nuôi dưỡng và lớn lên trong xã hội cộng sản:
1-/ Nguyễn-Duy: Nhà văn, nhà thơ Nguyễn-Duy một người được bạo quyền CSVN cho du học ở Ðông-Ðức nói về cái gọi là Xã-hội Chủ-nghĩa, xã hội mà CSVN thường khoe khoang là xã-hội ưu-việt:
Xứ sở thật thà mà sao lắm thứ điếm,
Ðíếm biệt-thự – Ðiếm chợ – Ðiếm vườn.
Ðiếm cấp thấp, bán trôn nuôi miệng,
Ðiếm cấp cao, bán miệng nuôi trôn.
( Nhìn từ xa...Tổ-Quốc)
Trong tác phẫm “Những người khổng lồ” ông cùng với người hạ giới, đứng về phía chủ-nghĩa nhân-bản cầu mong cho người cộng-sản có thêm tim óc để tất cả cùng quây quần bên nhau trong tình người và làm cho cuộc đời có ý nghĩa và đáng sống, đáng yêu. Ước mơ ấy cũng là điễm khác biệt chính yếu giữa cộng-sản phi nhân và Quốc-Gia Dân-Tộc:
“Số khổng-lồ có tim gật-gù nhìn thương hại lũ khổng-lồ không tim.
Còn hạ giới thì hoan hỉ chờ mong ngày Ngọc-Hoàng làm thêm tim cho số khổng-lồ ấy, nhất là người mới bắt đầu yêu nhau”.
(Những Người Khổng-Lồ)
2./ Nhà Thơ Trần-Hồng-Hà:
Còn có bút hiệu Cù-Lần. Tổng biên tập tờ “Diễn-đàn Praha” tờ báo của thanh-niên sinh viên Việt-Nam tại Ðông-Âu ra đời ngay sau khi cuộc Cách-Mạng Nhung Tiệp-Khắc năm 1989.
Qua bài thơ “Ðất-Nước Tôi” Trần-Hồng- Hà mô tả cái “ xã-hội ưu-việt” dưới bàn tay thô bạo CSVN :
Ðất-Nước Tôi
Ðất Nước tôi
là những ông già
thiết tha
bên vỉa hè - lịch sử
mua giùm xổ số – tương lai
Ðất Nước tôi
là những chàng trai
trãi kiến thức ngồi chờ bơm xe đạp
thế giới vùn vụt qua trước mặt
IBM ai chở xe thồ!
Ðất Nước tôi
ngây ngất những giấc mơ
sao sáng rọi thiên đàng trên trần thế
nhưng mộng đẹp ai mang ra để
đắp lên mình Tổ-Quốc mảnh chăn chiên.
Ðất Nước tôi
dàn ngực chịu đạn tên
đổi lấy khúc đầu một phần ba lời bác dạy
những vết thương còn sưng tấy
răng liền môi, răng bập cắn vào môi
Ðất Nước tôi
trắng hếu những quả đồi
xương anh em, chìa tay bắt “hữu nghị”
đất Nước tôi xót ngàn năm bị trị
hỡi ôi Dân Tộc mất còn
Ðất Nước tôi
Ðất Nước những con người
Rạch lưỡi rồi tập nói
Suy nghĩ, tâm tư kính chiếu Yêu vẫn rọi
cồm cộp gót giày, mũi Mác, mũi Lê
Ðất Nước tôi thương nhớ vẫn đi về
hình Mẹ khom lưng trãi dài trên bãi cát
hạt muối nặm chát từ dòng nước mắt
đắng vần thơ cho Người
ôi Mẹ
Việt-Nam ơi...
Trần Hồng Hà
Diễn đàn Praha số 15 – 26/2/1991
(Một phần ba khúc đầu lời bác dạy – nghĩa là “không có gì” lấy từ câu –không có gì qúi hơn độc lập tự do).
c./ Nöõ ca-só Phöông-Thanh: ñöôïc coäng-saûn Haø-Noäi göûi sang Hoa-kyø trong keá hoïach “giao löu vaên-hoùa moät chieàu “ traû lôøi vôùi phoùng vieân Ñöùc-Haø cuûa tuaàn baùo Vieät Mercury, San Jose, California ngaøy 9.3.2003 raèng:” Noùi raèng Phöông-Thanh haùt dôû hay khoâng thích tieáng haùt cuûa Phöông-Thanh thì Phöông-Thanh xin taï loãi, nhöng noùi Phöông-Thanh laø Vieät-coäng thì toäi nghieäp cho Phöông-Thanh laém
E/ Hèn hóa cả các cán bộ lãnh đạo cao cấp đảng CSVN;
1/ Tôn đức Thắng và Nguyễn văn Trấn;
Như chúng ta cũng đã biết, nhà văn Nguyễn Tuân trước khi chết mới cho biết kỹ thuật sống dưới chế độ cộng sản là “Phải biết sợ”, cũng như thế, cuối đời, thi si Chế lan Viên mới dám cho xuất hiện bài thơ “Cái bánh vẻ”. Nhạc sĩ Tô Hải , sắp ra nhị tì mới trình làng tập hồi ký “Thằng Hèn”.Những nhân vật tiêu biểu trên đây chỉ là đại diện cho hàng hàng lớp lớp “Thằng Hèn” trong cái xã hội cộng sản. Nhưng đặc biệt hơn cả là Tôn đức Thắng – nhân vật chóp bu của bạo quyền cộng sản cũng biết…”sợ:”. Chúng ta hãy nghe ông Nguiyễn văn Trấn kể chuyện chính ông và ông Tôn đức Thắng sợ:
“…Ác hết sức là cố vấn Trung Quốc hiến cho cái kế PHÓNG TAY. Phóng tay! Nói nôm na (theo Nam bộ) là “cứ việc làm mạnh thả cửa”. Và họ dẫn lời vàng ngọc ngụy biện, “à la” Mao Trạch Đông.
“Kiểu uông tất tu quá chỉnh”
Có nghĩa là: muốn khúc cây cong, ắt phải kéo nó quá chiều..
Trời ơi, đảng của tôi đã nghe lời người ngoài, kéo khúc cây cong quá trớn. Nó bật trở lại giết biết bao nhiêu vạn sinh linh.
Nói cho trọn gói.
Trước ngày có chỉ thị đó, Tôn đức Thắng đã họp thường trực Quốc hội với Ủy ban Liên Viêt toàn quốc để “phấn son” cho phát động quần chúng, coi đó là công tác trung tâm của năm 1953.
Đến Quốc hội họp (từ 1 đến 4 tháng muời hai 1953) Chủ tịch Hồ Chí Minh báo cáo tình hình và nói nhiệm vụ cải cách ruộng đất.
Quốc hội nhất trí đưa tay tán thành.
Tôi là đại biểu của Saigon – Cholon trong quốc hội.Nếu má tôi đội mồ dậy mà hỏi.
- Tại sao con đồng ý cái luật bất nhân ác đức ấy?
Tôi sẽ thưa:
- Luật ấy có ác nhơn cũng tại người làm.
Nè nghe má. Có lần anh chị em Nam Bộ “đại biểu tôi đến gặp ông già Tôn mà hỏi, tại sao ổng để cho cải cách ruộng đất giết người như vậy?”
Bác Tôn đang ngồi, nghe tôi hỏi, liền đứng dậy buớc ra khỏi ghế, vừa đi và nói.
- Đụ mẹ, tao cũng sợ nól, mầy biểu tao còn dám nói cái gì?
Quả thật, lúc cải cách ruộng đất còn nghe theo Chệc mà phóng tay phát động ai mà có ý kiến với nó thì sẽ bị quy là có tư tưởng địa chủ
(Trích Viết Cho Mẹ & Quốc Hội của Nguyễn vắn Trấn – trang 266, 267)
2/ Trường Chinh: theo các tài liệu hiện có thì Trường Chinh tức Đặng xuân Khu một trong những tên cán bộ cao cấp của đảng CSVN thì Trường Chinh nhờ biết sợ cán bộ cố vấn Tàu cộng mà được vinh thân phì da. Cũng theo ông Nguyễn vắn Trấn thì sau đây là một kiểu biết sợ của Trường Chinh :
“Trường Chinh là con có hiếu, không nỡ để cho cha anh mình bị bắt quỳ gối ở sân đình. Liền đem cha đi giấu ở Hàng Mắm, rồi ngồi trên chop bu của Đảng mà nín thinh, mang nỗi sợ.
Và cuối cùng ông Nguyễn văn Trấn kết luận :”Vì ngu đần nên cố vấn Truing Quốc dạy cho làm bậy”
(Trích Viết Cho Mẹ & Quốc Hội của Nguyễn vắn Trấn – trang 267)
F/ Hèn hóa người dân
Bánh xe Lịch sử thường do lực kéo đẩy và lực trì níu. Nếu lực đẩy kéo mạnh thế hơn thì lịch sử được chuyển động và vươn tới phía trước nhằm mỗi lúc mỗi phục vụ sự thăng tiến, làm cho giòng sống ngày một thăng hoa.
Ngược lại, nếu lực trì níu mạnh hơn thì lịch sử càng lúc càng thóai hóa trong khi nhân lọai ngày một thăng tiến và đời sống người dân ngày một thêm đau thương thống hận.
Tóm lại viễn ảnh dân tộc tươi sáng do lực đẩy báo hiệu, và tiền đồ tổ quốc sẽ suy vong thậm chí có thể dẫn đến tiêu vong là do lực níu kéo báo hiệu.
Từ khi cộng sản thống trị, quê hương bị lao nhục khốn cùng, và rõ ràng những dấu hiệu tổ quốc tiêu vong ngày càng lộ rõ nét.
Đảng CSVN thực hiện lực níu kéo bằng cách biến đất nuớc VN thành món hàng tư riêng để cùng nhau chia chác hưởng lợi, phân chặt quê hương thành từng mảnh để bán buôn trao đổi. Khống chế toàn dân bằng thứ luật rừng tàn độc và man rợ.
Kinh nghiệm lịch sử đã chứng minh, lực thúc đẩy cho bánh xe lịch sử nghiền nát thế lực bất lương níu kéo giòng sống lịch sử luôn luôn ở vào hai thành phần: Trí thức và dân chúng. Cũng như cơ thể con người; lực lượng trí thức đãm nhiệm vai trò não bộ và giới bình dân là tứ chi thực hiện sự chỉ đạo của não bộ.
Qua những phần trên, chúng ta đã nhận thức được rằng CSVN đã dùng đủ mọi phuơng thức, mọi thủ đọan nhằm làm hèn hóa giới trí thức. Vậy, đối với lực lượng quân chúng nhân dân thì CSVN thi hành thủ đoạn hèn hóa bằng cách nào. Trong phần nầy, chúng tôi không nói nhiều về những thủ đoạn mà bất cứ kẻ nào từ bọn cướp nuớc như thực dân Pháp đến bọn băng đảng lưu manh thảo khấu như cộng sản cũng đều phải áp dụng dó là ngu dân, chia rẽ, khích động làm thức dậy bản năng thú tính nơi con người như hám danh, hám lợi, đua đòi ganh tỵ và thực tế nhất là cờ bạc, đàng điếm, hút xách, dâm loạn..., những thủ đoạn trên, dĩ nhiên CSVN triệt để khai thác. Nhưng bằng thực nghiệm, chúng tôi trình bày thêm một thủ đoạn vô cùng gian trá, ác độc và lưu manh thượng hạng; Đó là phuơng thức làm khô máu trong cơ thể, khô máu trong tư cách trong nhân phẫm làm người. Phuơng thức nầy xin được gọi là làm cho đói, tư tưởng lúc nào cũng thèm khát: Khát ăn, khát dâm, khát danh, khát lợi, khát quyền…những thứ Khát nầy phải quay đầu về phía huớng hạ súc sanh chứ không được nhìn về huớng Chân – Thiên –Mỹ.
Để thỏa mãn những đói khát nầy, con người phải tự biến thể như sau:
Biến từ một người đàng hoàng bình thường thành:
Tên ăn cắp, kẻ tiểu nhân, người hèn nhát, tên láo lường, bất lương và kẻ hèn mạt phản bội.
Khi đã gia nhập vào đội quân thèm khát nầy, nghĩa là nhận chịu lá bùa sinh tử phù của CSVN và cũng có nghĩa là tự hiến cuộc đời mình thành như những tên nô lệ và phải theo quy luật kẻ nô lệ mà chủ nhân ông là cộng sản. Chúng ta hãy xem quy luật của chủ da trắng bắt buộc người nô lệ da đen ngày xưa phải triệt để tuân thủ, nếu không sẽ bị trừng phạt rất nặng nề và thường là bị vong mạng so chiếu đảng CSVN ban hành cho những kẻ có tham vọng khát thèm;
- Người nô lệ: Không được rời bỏ lãnh địa của chủ, không được tập họp thành nhóm, không được mua bán, không được học để biết viết biết đọc
- Nguời khát thèm tham vọng: Cũng không được tự ý rời bỏ nơi đang bị quản lý hộ khẩu, không được thành lập hiệp hội, đoàn thể, không thể tự do kinh doanh, không có cơ hội học hành thành đạt, văn nghệ sĩ phải theo khuôn mẫu lãnh đạo của đảng CSVN.
Những thứ Khát vọng hạ tiện ấy biến con người mất khả năng đề kháng, đó là một thứ bệnh Aids (Sida) cộng sản đang cấy vào dân tộc. Đây chính là tội ác lớn nhất của đảng cộng sản VIệt Nam.
Câu ca dao dưới đây cũng đủ để lột tả nổi đau nhục trong gia đình của xã hội VN ngày nay dưới chế độ công sản:
Sinh con gái là đô la có dưới háng,
Sinh con trai lán trại chực chờ giam (47)
XIII/ Cộng sản qua kinh nghiệm của những nhà lãnh tụ thế giới:
Nhiều người đứng ở ngoài, chưa hiểu biết, chưa từng nếm mùi cộng sản, ngây thơ tưởng tượng xã hội cộng sản là xã hội thiên đàng dưới trần thế. Nhưng khi đã sống, đã nếm biết mùi, đã nhận biết được mặt thật cộng sản. Và một khi với biết được mặt mũi, mồm ngang miệng dọc rồi thì cũng là lúc chịu chết vì không còn đường bôn tẫu. Và nếu thóat khỏi có khi cũng phải lấy sinh mạng ra để đánh đổi .
Nếu Marx bảo tôn giáo là thuốc phiện mê hoặc con người thì Marxsim lại chính là thuốc độc giết chết con người.
Số phận đói nghèo, lạc hậu, ngu dốt, hèn hạ, thoái hóa, và trên bờ vực tiêu vong mạt hạng giành cho bất cứ Dân tộc nào cưu mang chủ nghĩa cộng sản.
Picasso về già mới dám trả thẻ đảng.
Howard Fast cũng xin ra Đảng lúc gần đất xa trời.
Phải khó khăn lắm mới nhận ra bộ mặt thật của nó.
Chẳng thế mà dân Liên Xơ bị bịp trên 70 năm!
Sau đây là những lời tuyên bố của những lãnh tụ tiêu biểu thế giới nhận xét về chũ nghĩa cộng sản:
1/- Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu:
- Đừng nghe những gì Cộng Sản nói, hãy nhìn kỹ những gì Cộng Sản làm
2/- Nhà văn Nga Alexandre Soljenitsym:
- Khi thấy thằng Cộng Sản nói láo, ta phải đứng lên nói nó nói láo. Nếu không có can đảm nói nó nói láo, ta phải đứng lên ra đi, không ở lại nghe nó nói láo. Nếu không can đảm bỏ đi, mà phải ngồi lại nghe, ta sẽ không nói lại, những lời nó nói láo với người khác
3/- Đức Dalai Lama lãnh tụ Quốc Gia và Phật giáo Tây Tạng:
- Cộng Sản là loài cỏ dại, mọc trên hoang tàn của chiến tranh, là loài trùng đôc, sinh sôi, nẩy nở, trên rác rưởi của cuộc đời
4/- Thủ Tướng Đức Angela Merkel:
- Cộng Sản đã làm cho người dân trở thành gian dối
5/- Tướng Sheridan:
- The only good Communist is a dead Communist (thằng Cộng Sản tốt duy nhất là thằng Cộng Sản chết).
6/- Tổng Thống Nga Vladimir Putin:
-Kẻ nào tin những gì Cộng Sản nói, là không có cái đầu, Kẻ nào làm theo lời của Cộng Sản, là không có trái tim
7/- Tổng Thống Nga Boris Yeltsin:
- Cộng Sản không thể nào sửa chửa, mà cần phải đào thải nó
8/- Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản Liên xô Mr. Mikhail Gorbachev:
- Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng Cộng Sản. Ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng: Đảng Cộng Sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá
9/- General William C. Westmoreland:
- Chúng ta không thua tại Việt Nam, nhưng chúng ta đã không giữ đúng lời cam kết đối với Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Thay mặt cho quân đội Hoa Kỳ, tôi xin lỗi các bạn cựu quân nhân của Quân Lực Miền Nam Việt Nam vì chúng tôi đã bỏ rơi các bạn
(On behalf of the United States Armed Forces, I would like to apologize to the veterans of the South Vietnamese Armed Forces for abandoning you guys).
XIV./ Hóa giãi thù hận:
A/ Mạnh mẽ xác định CSVN là tội đồ:
Ðảng Cộng-sản Việt-Nam lợi dụng Tổ-Quốc bị dày xéo, Quê-Hương bị đọa đày, Dân-Tộc bị lầm than dưới gót xâm lược của thực-dân Pháp. Ðảng CSVN do HCM lãnh-đạo được Cộng-sản Liên-xô đào tạo, đồng thời được toàn thể khối Cộng-sản Ðông-âu và Tàu cộng mạnh mẽ hổ trợ trong mục đích biến VN thành tên lính xung kích để phát triển và bảo vệ quyền lợi cho Nga Tàu. Muốn trường cữu trên ngai vàng quyền lực với sự bảo hộ của khối Cộng-sản, bọn Việt gian Hồ-chí-Minh và bè lũ cam phận nô lệ triệt phá hệ thống đạo lý, lấy tù đày thủ tiêu để đe dọa sự phản kháng. Gây cảnh lầm than đói nghèo cùng cực để người dân phải lo sinh tồn không có điều kiện tập họp. Dùng đoàn ngũ hóa để khống chế. Lấy sự nghi ngờ, đố kỵ để chia rẽ, phá vỡ tình lân lý kết hợp. Học-đường là độc đạo chỉ dành riêng cho đám con cháu cán bộ hầu duy trì quyền lực. Mua chuộc trí thức bất lương và hãm hại trí thức chân chính. Bọn CSVN phủ trùm lên sinh mệnh VN không khí tang tóc, bạo-lực, đe dọa, nghiệt ngã. Cứu cánh là quyền lực quyền lợi, hèn hóa là phương cách còn lại đều là phương tiện. Chúng ta hãy nghe bọn cán-bộ cao cấp hô hào những khẩu hiệu đẫm máu và ô nhục làm kinh hoàng và bắt buộc người dân mộc mạc hiền lành phải khiếp vía quy phục:
Giết, giết nữa–bàn tay không phút nghỉ,
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong.
Cho Ðảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng,
Thờ Mao chủ-tịch, thờ Sít-Ta-Lin bất diệt.
(Tố-Hữu)
Hay:
Anh em ta quyết chung lưng,
Ðấu tranh tiêu diệt, tàn hung tử thù.
Ðịa hào, đối lập ra tro,
Lưng chừng, phản động đến giờ tan xương.
Thắp đuốc cho sáng khắùp đường,
Thắp đuốc cho sáng đình làng đêm nay.
Lôi cổ bọn nó ra đây,
Bắt quỳ gục xuống, đọa đày chết thôi.
(Xuân-Diệu )
B/ Đảng cộng sản phải nhận trách nhiêm trước lịch sử và chủ động giãi hận:
Muốn được sinh tồn, muốn đuợc sự khoan hồng, giãm nhẹ tội trạng thì ngay bây giờ, tức khắc hôm nay, những người CSVN cần phải chủ động giãi hận! Truớc hết, CSVN phải chấm dứt ngay tình trạng xem Việt-Nam là tài sản riêng tư, xem nhân dân là kẻ tôi đòi nô lệ. Chấm dứt ngay tức khắc thái dộ lộng quyền ngang ngược cứ phá hoại, tàn sát, hiếp đáp rồi lại sửa sai, lại được chiếu cố vì “nhân thân có công với Ðảng“ nên giãm nhẹ hoặc “Xử lý nội bộ “. Phương pháp duy nhất là CSVN phải sám hối như sự chỉ dạy của Hòa-Thượng Thích Quảng Ðộ.
Đảng cộng sản cần nhận thức rằng, trì hoãn việc chủ động giải hận sẽ làm nhu cầu giải hận của người dân càng gia tăng tốc độ giải hận và do chính người dân phải tự động đứng lên vì quyền lợi, vì sự sống còn của dân tộc và của Tổ Quốc. Hình ảnh vợ chồng tên độc tài Ceaucsrcu bị dân chúng huởng ứng lời kêu gọi của Hội Đồng Cứu Quốc Romania bắt ngày 17.12.1989 và bị tử hình ngày 25.12,1989 là tấm gương trước mắt cho những tên khảo khấu CSVN cần suy nghiệm. Dấu hiệu suy tàn của đảng CSVN và cũng là dấu hiệu của sự nổi dậy của nhân Việt Nam là khi nào cộng sản không còn:
- Ñoäc quyeàn yù-thöùc-heä chính-trò, thieát-laäp cheá-ñoä chuyeân-chính caàm quyeàn.
- Ñoäc quyeàn caùc phöông-tieän truyeàn-thoâng, giaùo-duïc vaø luaät-phaùp.
- Ñoäc-quyeàn kinh-teá vaø moïi quan-heä veà phöông-thöùc saûn-xuaát vaø tieâu duøng.
Thì đó cũng là ngày cáo chung, và cũng là ngày cộng sản Việt nam đứng trước vành móng ngựa lịch sử. Cầu xin máu đừng đỗ thêm trên quê hương đã quá nhiều máu lệ, nhưng cũng thật khó lòng ngăn cản sự căm hận tột cùng và cao độ của nhân dân. Thành thật, tôi không dám nghỉ tới một hình ảnh mà nhất định hình ảnh ấy sẽ phải xảy ra khi cơn thống hận nhân dân Việt Nam trở thành triều dâng thác đổ. Sinh lộ duy nhất cho CSVN là tự sám hối và tự xin được giải hận
XV-/ Ai chọn và chọn ai:
Hôm nay Trí thức chân chính đã minh thị thái độ chọn lựa!
Phần trên, chúng ta đã hiểu được nổi phẫn-hận căm thù của người dân – thành phần mà Việt cộng luôn nhân-danh họ và đã bán đứng họ, không nương tay bóc lột khủng bố khống chế hà hiếp họ. Hòa Thượng Thích Quảng-Ðộ Viện Trưởng Viện Hóa-Ðạo Phật Giáo Việt-Nam Thống Nhất đã tiên đoán CSVN không thể tránh khỏi cuộc trả thù ghê gớm của Nhân dân Việt Nam.
Xã hội loạn ly điên đảo thống hận không những do CSVN mà còn do bọn thời cơ, bọn hoạt đầu chính trị. Bọn nầy khát thèm địa vị, danh vọng, bổng lộc. Chúng hèn hạ làm những tên chỉ điễm, ma cô chính trị và người dân điễm mặt bọn nầy như sau:
Hỡi thằng đón gió trở cờ
Cơ đồ dựng lại mầy bò đi đâu?
Việt-cộng là thủ-phạm chính gây tan tác điêu linh. Tội ác của chúng núi sông ghi khắc oán thù. Bọn cán-bộ việt-cộng lấy hình ảnh Hồ chí Minh để chiêu dụ phỉnh gạt.
Nhân dân Việt Nam xem Hồ chí Minh như biểu tượng của đảng cộng sản, đảng của tội ác nên họ trông chờ. Họ đã dùng cậu nói lái để giểu cợt cộng sản
Ðại thắng lợi ảnh bác Hồ lộng kiếng,
Nghĩa là:
Ðơi thắng lại ảnh bác Hồ liệng cống.
Sở dĩ lòng dân chập chùng thù hận như thế vì chế-độ cộng-sản là chế-độ công-an trị. Và vì công-an là công-cụ bất nhân dã-man thi triển những sỡ-trường gian manh và xử-dụng đòn thù quá độc ác. Công-an của đảng cộng sản Việt Nam thu gom những nghiệt ngả nhất từ khi có con người cộng với bản chất ti-tiện nhỏ mọn. Hiện nay chúng biến xã-hội Việt Nam thành địa ngục trần gian nên người dân tuyên án:
Công-an là bạn của dân ,
Ở xa thì bắn , ở gần thì đâm.
Cộng sản Việt Nam gây thãm họa, ách nạn trên đời sống, nên người dân đã vô cùng phẫn nộ:
Ðôi dép râu, dẫm nát đời son trẻ,
Mũ tai bèo che khuất nẻo tương lai !
Vì vậy nhân dân quyết định:
Bảng đỏ sao vàng, dân no ấm ,
Bác Hồ lộng kiếng, Nước Tự-Do .
Nghĩa là :
Bỏ đảng sao vàng = dân no ấm ,
Bác Hồ liệng cống = Nước Tự-Do .
Và bây giờ, thực tế người dân VN đã muốn “mã quy “Nghĩa là - Mỹ qua.
Những oan hồn bị ám hại khi CSVN dọn đường cho mộng đồ vương.
Những oan khuất trong đợt cải cách ruộïng đất và sửa sai ở niền Bắc.
Những vong linh vất vưỡng trên đường Trường-sơn chết cho giấc mơ thống trị của cộng-sản
Những oan linh chất chùng căm oán, trên những quốc lộ kinh hoàng, trong rừng sâu, nơi biển Ðông.
Những tha ma, nơi vùi nông thân xác tù nhân đói khổ do bạo hành nghiệt ngã. Những kiếp người vơ vất lang thang đói ăn thiếu mặc.
Những người Việt phải lìa xa quê-hương, bôn ba hải ngoại.
Tất cả đã mạnh mẽ biểu thị sự chọn lựa qua những câu ca dao mới, những câu chuỵện khôi hài vừa cay đắng thi vị, vừa khinh thường châm biếm và cũng đã có những hành động quyết liệt mà máu đào thắm đượm vào lòng đất quê-hương.
Cũng đã quá dài giai đoạn CSVN gieo đau thương thống hận. Lịch sử giống nòi phải ghi nhận những trang ô nhục. Nhưng trước mắt, chúng ta đang đứng trước nan đề: giãi-hận ! Chắc chắn nhân dân VN dù rất căm hờn phẫn hận CSVN nhưng họ ước mong khi ngụy quyền CSVN bị lịch sử đào thải thì Dân tộc VN không bị lâm vào tình trạng thê lương tan nát tràn ngập hận hờn.
Thế là, không còn nghi ngờ gì nữa. Tất cả mọi người từ con dân Nước Việt đến toàn thể loài người đều biết được: Không ai ngoài Nhân-Dân Việt-Nam chủ động chọn lựa đời sống và chế độ Chính trị cho Xã-hội họ đang sống. Vấn đề Nhân-Dân chọn thể chế nào và chọn ai sẽ được Nhân-Dân VN trả lời trong thùng phiếu bằng một cuộc tuyển chọn theo đúng phương-cách và giá trị làm người đích thực của họ!
Tống Phước Hiến
Viết xong ngày 23 tháng 8 năm 2009 tại Lillte Sài Gòn
(Thủ phủ của người Việt Nam tỵ nạn cộng sản Việt Nam)
------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Chú thích:
1/ Xe xanh : Xe của Quân đội VC sơn màu xanh .
2/ Ngaøy 3.2: Ngaøy thaønh laäp ñaûng CSVN .
Ngaøy 8.3 : Ngaøy phuï nöõ
Ngaøy 26.4: ngaøy thanh nieân.
Ngaøy 20.7 : ngaøy kyù hieäp ñònh Geneve 1954.
Thaùng 8: Ngaøy khaùng chieán toaøn quoác.
3/ Daân-Tieân: Traàn-Daân-Tieân moät trong nhöõng teân giaû nhö T.Lan, X.YZ. maø Hoà chí-Minh duøng ñeå vieát saùch töï ñeà cao thaùn phuïc mình, Theá-giôùi töø xöa ñeán nay môùi coù moät ngöôøi traâng traùo voâ lieâm só nhö theá.
4/ Khu: Ñaëng xuaân Khu bí danh Tröôøng- Chinh. Sinh ngaøy 9.2.1907 laøng Haønh-Thieän, phuû Xuaân-Tröôøng, Tænh Nam-Ñònh, Nay laø xaõ Xuaân-Hoàng, huyeän Xuaân-Thuûy, Nam-Ñònh, con cuûa Ñaëng-xuaân-Vieân nguyeân laø höông lyù laøng vaø Nguyeãn-thò-Thu. Thuôû nhoû leâu-loång. Naêm 1927 gia nhaäp Thanh-nieân Caùch-Maïng ñoàng-chí hoäi (tieàn-thaân cuaû ñaûng CSVN. Thaùng 12.1929 Khu ñöôïc nhaän vaøo hoïc tröôøng daïy ngheà: ”Thöông Maõi Thöïc-Nghieäp” (khoâng phaûi laø Cao-ñaêûng Thöông-Maõi).Thaùng 9.1931 Khu bò Phaùp baét vaø keát aùn 12 naêm khoå sai, nhöng chæ ñeán naêm 1936 thì ñöôïc Phaùp tha. Sau khi Nguyeãn-vaên-Cöø Toång-bí-thö Coäng ñaûng cheát. Taïi hoäi-nghò Trung-öông ñaûng kyø thöù VII Khu ñöôïc giöõ chöùc quyeàn Toång bí thö. Trong chieán dòch caûi-caùch ruoäng ñaát, Khu laø Tröôûng-ban caûi caùch ruoäng-ñaát Trung öông chæ huy taát caû caùc ñoäi Caûi-caùch ñòa phöông. Thuû phaïm cuûa caùc vuï ñaáu toá kinh hoaøng, tang toùc theâ löông ôû Mieàn Baéc vaøo khoaûng naêm 1956. Chính Tröôøng-Chinh naém ñaàu cha meï haén hoûi :” Chuùng maày coù coâng nhaän chuùng maày laø ñòa chuû cöôøng haøo aùc baù khoâng? vaø cuõng chính haéùn keùo giöït toùc cha meï haéùn xuoáng cho moïi ngöôøi xoâng tôùi phæ nhoå, ñaùnh ñaäp sau ñoù thì gieát cheát. Nhôø vaäy, Tröôøng-Chinh ñöôïc Mao traïch Ñoâng tin caäy cho naém chöùc Toång Bí thö ñaûng CSVN. Sau naày, coù ngöôøi cho bieát hai ngöôøi bò haønh haï cheát thaõm kia laø hai ngöôøi daân hieàn laønh voâ toäi, bò Khu baét ñoùng giaû vai cha meï ñeå Khu chöùng toû loøng trung thaønh vôùi quan thaày Mao.
Caùc teân Tröôøng-Chinh (Ñaëng-xuaân-Khu), Phaïm vaên Ñoàng, Leâ-Duaãn, Voõ nguyeân Giaùp, Nguyeãn-chí-Thanh, Leâ-ñöùc-Anh, Voõ-vaên Kieät, Ñoå-Möôøi... trong baøi naày ñeàu laø boïn choùp bu thuoäc Boä Chinh-Trò ñaûng CSVN.
5/ Sau khi duøng coâng-an trò, baét bôù giam caàm thuû tieâu caùc thaønh phaàn quaân nhaân vieân chöùc, nhöõng ngöôøi yeâu nöôùc, vaø baát cöù ai vôùi baát cöù lyù do gì maø chuùng khoâng thích. Traán aùp, huø doïa khuõng boá xong, boïn CSVN thöïc hieän troø ñoåi tieàn, traéng trôïn cöôùp ñoaït taøi saûn moà hoâi nöôùc maét cuûa Nhaân-daân mieàn Nam . Luùc aáy hoái xuaát 1 dollar Myõ töông ñöông 500 $ VNCH nhö theá thì tieàn cuûa chuùng giaù trò ngang tieàn Myõ. Khoûang 1 naêm sau Vieät-coäng laïi ñoåi tieàn laàn thöù hai vôùi tyû soá 1$ môùi, aên 100 $ cuõ nghóa laø cao 100 laàn hôn USD ( baây giôø thì gaàn 18.000$ VC aên 1 dollar Myõ – Ñaây laø haèøng soá chæ khaû naêng laõnh ñaïo cuûa CSVN). Giaù trò ñoàng tieàn nhö theá maø moät ñoàng chæ mua ñöôïc nöûa boù rau muoáng (loaïi rau moïc ñaày ven soâng bôø ao vaø khoâng coù giaù trò maáy ôû nieàm Nam ).
*-Teân saét, teân Ñoàng: chöõ Saét ñeå ñi vôùi chöõ Ñoàng, neân khoâng coù yù nghóa. Ñoàng laø Phaïm-vaên-Ñoàng sinh naêm 1906 taïi Moä-Ñöùc, Tænh Quaûng-Ngaõi con cuûa Phaïm vaên-Ngaø (coøn goïi laø Tuù Tyù vì ñoåù ñöôïc Tuù taøi) nguyeân ngöôøi laøng Haønh-Thieän, tænh Nam-Ñònh. Oâng Ngaø laøm quan nhoû giöõ chöùc Haønh taåu Boä Coâng, vì cöôûng hieáp vôùi coâ tôù gaùi baø con beân ngoaïi neân xaáu hoå roài cuøng quyeán thuoäc di cö vaøo Quaûng-Ngaõi, vaø Meï laø baø Nguyeãn-thò-Tuaàn. Phaïm vaên Ñoàng luùc nhoû hoïc ôû Hueá, sau ra Haø-Noäi hoïc tröôøng Böôûi. Ñoàng khoâng vöôït qua noåi baèng Tuù-taøi
6/. Phaïm-vaên-Ñoàng cuõng laø Uûy-vieân Boä-chính-trò, chuyeân ngheà làm Thủ-Töôùng CSVN.
*/ Maát choàng, maát caû thaèng cu: Choàng bò baét ñi lính cheát, roài ñeán con cuõng ñi lính cheát. Theá heä naày sang theá-heä khaùc ñeàu phaûi ra maët traän cheát cho moäng thoáng trò cuûa CSVN.
7/ Voõ-nguyeân Giaùp bò boïn ñoàng ñaûng ñaù xuoáng chöùc Ñaïi-Töôùng chuû-tòch uûy-ban ñaëc traùch keá hoaïch haïn cheá sinh saûn cuûa phuï nöõ.
8/ Nguyeãn-Chí-Thanh: Cuõng nhö Võ Nguyên Giaùp; Thanh bò chôi khaêm cho giöõ chöùc Ñaïi töôùng ñaêïc traùch gia taêng phaân boùn thuoäc boä Noâng nghieäp. Phaân baéc laø phaân ngöôøi coøn töôi vaø phaân xanh laø laù caây uû ñaõø hoai muïc .
9/ Vuï aùn tình Phaïm-huy-Thoâng: theo taùc giaû Vieät-Thöôøng töøng laø caùn boä cao caáp VC. Chuyện Giáp bị Thông cắm sừng được kể như sau:
Khi Giaùp laøm“Tö-lònh chieán dòch Ñieän-bieân-Phuû”û y ñöôïc caùc coá-vaán Trung-coäng cho pheùp tìm “söï minh-maãn “ baèng caùch moãi ñeâm vôùi moät coâ gaùi Thaùi traéng xinh ñeïp, neân vôï y ngoaïi tình vôùi Phaïm huy-Thoâng laø giaùo sö Söû hoïc, vieän-tröôûng vieän khaûo coå cuûa VC ñeå traû thuø.
10/ Hoï Trö: Trö baùt giôùi ñeä töû thöù hai cuûa Ñöôøng Tam Taïng trong truyeän Taây du kyù. Nhaân-vaät naày ñöôïc moâ taû ñaïi dieän cho haïng ngöôøi gian manh, nònh bôï, löôøi bieáng, tî-hieàm nhöng laïi tham aên, tham nguû, tham gaùi.
11/ Thoï: Leâ-ñöùc-Thoï teân thaät laø Phan-ñình-Khaûi bí danh laø Saùu Thoï, daân trong Nam taäp keát ra Baéc goïi y laø Saùu Buùa ( vì y gheùt boû kyø thò daân mieàn Nam, neân y truø daäp daân taäp keát thaúng tay) uûy-vieân Boä chính trò ñaûng CSVN. Tröôûng ban Toå-chöùc kieâm tình baùo cao caáp Ñaûng. Y laø con cuûa teân Vieät-gian Phan-ñình-Hoøe. Hoøe laø thuû haï thaân tín cuûa Vieät-gian Vuõ-vaên-Baùo Toång-đoác Nam-Ninh gieát haïi caùc chieán só phong traøo Caàn-Vöông. ( nhö Tieán-só Vuõ-Huy-Lôïi töùc Ông Ngheø Laøng Giao Cuø bò Hoøe vaâng lònh Phaùp xöû cheùm). Thoï cuøng vôùi Leâ-Duaãn baùo cho phoøng Nhì Phaùp bieát ñeå phuïc kích baén cheát Nguyeãn-Bình (töùc Nguyeãn-Phöông-Thaûo nguyeân tröôùc laø ñaûng vieân VNQDÑ sau theo ñaûng coäng-saûn toá caùo VNQDÑ vôùi chuùa nguïc Tonston. Bình cuõng ñaõ taøn saùt VNQDÑ ôû Moáng-caùi vaøo khoaûng 1945 – 1946. Y ñöôïc Hoà phong cho chöùc Trung-töôùng laõnh daïo khaùng Nam boä.
12/ Giaùp – Duõng:
*/ Giáp : Tức Võ-nguyeân-Giaùp sinh naêm 1929 laøng An xaù, Huyeän Leä-Thuûy, Tænh Quaõng-Bình, con cuûa Phaïm-vaên-Nghieãm (Töùc cöûu Nghieãm) laøm kyù luïc cho Phaùp ñöôïc haøm cöõu phaãm. Giaùp thuoäc gia-ñình ñòa chuû tö saûn coù ruoäng cho caáy reõ, cho vay laáy laõi. Giaùp vaø Ñaëng-thaùi-Mai ñeàu con nuoâi (kieâm), ñieàm chæ vieân theo doõi caùc Chieán-Só Quoác-Gia cho teân Louis Marty truøm maät thaùm Phaùp. Thôøi-gian ôû Trung-Quoác, Giaùp ôû chung nhaø troï vôùi Cuï Döông-Baù-Traïc vaø cuï Hoaøng-Vaên-Chí, nhôø vaäy Cuï Chí môùi phaùt giaùc Giaùp laøm ñieàm chæ cho Louis Marty. Giaùp hoïc Luaät khoa nhöng vì khoâng vöôït qua kyø thi veà Phaùp cheá Ñoâng-Döông neân khoâng döôïc boå ñi laøm quan. Nhöng Giaùp ñöôïc teân truøm maät thaùm Phaùp naày ñöa vaøo daïy Söû-Ñòa cho tröôøng Trung-hoïc Thaêng-Long, coøn Ñaëng-thaùi Mai (thì daïy ôû tröôøng Gia-Long do Bally laøm Giaùm-Ñoác. Giaùp ñöôïc HCM tin duøng phong cho laøm Uûy-vieân Boä Chính-Trò, Ñaïi-Töôùng Toång Tham-Möu Tröôûng, Bí Thö Quaân-UÛy Trung Öông Quaân-Ñoäi Coäng-Saûn Baéc-Vieät (QÑ/CSBV). Boä-Tröôûng Quoác-Phoøng do Phaïm-vaên-Ñoàng laøm Thuû-Töôùng.
Khi HCM cheát. Giaùp bò Leâ-Duaãn haát ra khoûi UÛûy Vieân Trung-Öông Ñaûng vaø chôi khaêm cho giöõ chöùc Chuû-Tòch Uûy Ban Khoa Hoïc Xaõ Hoäi phuï traùch Keá-hoaïch hoùa gia ñình, nhieäm vuï chuû yeáu laø ngöøa thai cho phuï nöõ.
Giaùp ñöợc HCM chæ thò cho ñaûng CSVN taïo ra huyeàn thoaïi là moätø töôùng laõnh thieân taøi qua traän Ñieän-bieân-phuû. Giaùp ñöôc Hoà phong thaúng moät hôi töø trung ñoäi tröôûng voõ trang tuyeân truyeàn (du kích) leân ñaïi töôùng. Thaät ra, traän Ñieän-bieân phuû laø do ba Trung töôùng cuûa coäng saûn Taøu laø Laõ-quyù Ba. Vi-quoác-Thanh vaø Traàn Canh tröïc tieáp chæ huy.
*/ Dũng: Tức Vaên-Tieán-Duõng nguyeân thôï may. Ñöôïc vaây caùnh naâng ñôû nhöng vì hai vôï choàng y buoân laäu baïch phieán và hàng quân dụng viện trợ quaù traéng trôïn vaø taùo baïo neân y bò aâm thaàm caùch chöùc. Duõng cuõng laø Uûy-Vieân Boä Chính-Trò, Ñaïi Töôùng vaø Toång Tham Möu Tröôûng QÑ/CSBV).
13/ -*/ Xuaân-Thuûy nguyeân Boä Tröôûng Ngoaïi giao Haø-noäi thôøi Phaïm-vaên-Ñoàng laøm Thuû Töôùng nguïy-quyeàøn CSVN.
*/ Bình: Nguyeãn-thò-Bình nguyeân laø vôï leû cuûa moät Đoâc phuû söù, sau laøm vôï cho moät teân caùn boä döôùi quyeàn cuûa Nguyeãn thò Thaäp neân döôïc laøm thö kyù rieâng cho thò Thaäp, roài laøm phoù vuï leå taân bộ ngoïai giao, nhôø chòu laøm vôï hôø cho Xuaân Thuûy neân ñöôïc Thuûy caát nhaéc laøm Boä Tröôûng Ngoaïi giao cho ñaùm Huyønh-vaên Phaùt, con roái do Haø-noäi ñieàu khieån.
*/ Haèng : nguyeân xaõ vieân deät chieáu Thanh-Hoùa. Bò truùng ñaïn maùy bay Myõ, nhôø gaëp Mai Maân phoùng vieân aûnh baùo Tieàn Phong Haø Noäi thaáy Haèng coù nhan saéc neân ñöa leân trang baùo. Nhôø vaäy Haèng ñöôïc Xuaân-Thuûy bí thö trung öông ñaûng phuï traùch ñoái ngoïai kieâm boä tröôûng ngoaïi giao, kieâm phoù chuû-tòch vaø toång thö kyù quoác hoäi ñöa vaøo giöõ chöùc uûy vieân bam ñoái ngoïai quoác hoäi kieâm bí thö ñoøan thanh nieân lao ñoäng HCM roài thöù tröôûng boä lao ñoäng vaø xaõ hoäi, uûy vieân trung öông . Haèng coù bò toá giaùc laø buoân laäu thuoác laù ngoaïi.(Theo Vieät-Thöôøng).
14/ Vôï Lieâm: Töùc Leâ thu Traø phoù chuû nhieäm thöôøng tröïc uûy ban thieáu nieân vaø nhi ñoàng, Y thò laø vôï cuûa thieáu töôùng Leâ-Lieâm chuû nhieäm toång cuïc chính trò (tröôùc Nguyeãn-chí-Thanh)
15/ Baùch: Traàn-xuaân-Baùch nguyeân uûy-vieân Boä Chính trò ñaûng CSVN. Troán sang Taøu vì sôï baêng thaân Lieân-soâ thanh toaùn thuû tieâu.
16/ Gia-Töôøng ; ?
17/ Danh-Tuyeân : ?
18/ * Caån: töùc Ñinh thò Caån nguyeân laø caùn boä hoä lyù (töùc ñaàu beáp} cho HCM, sau ñöôïc Hoà caát leân uûy vieân döï-khuyeát trung öông ñaûng khoùa 3, töøng laø thöù tröôûng thöù nhaát kieâm b1 thö ñaûng, ñoaøn boä y teá (thôøi Phaïm-ngoïc-Thaïch laøm boä tröôûng. Sau ñoù laøm phoù chuû nhieäm thöôøng tröïc uûy ban baûo veä baø meï vaø treû em. (Vieät-Thöôøng)
*Thaäp: Nguyeãn thò-Thaäp nhôø caëp boà vôùi HCM, ñöôïc Hoà cho chöùc Uûy-vieân Trung öông ñaûng CSVN Hoäi tröôûng Hoäi Phuï-Nöû VN, moät toå chöùc ngoaïi vi cuûa daûng CSVN (Vieät-Thöôøng)
*Myõ : Tröông thò Myõ nguyeân laø caùn boä caàn vuï (boài phoøng) cho HCM, ñöôïc Hoà cho giöõ chöùc phoù chuû tòch toång coâng ñoøan Vieät-Nam (thôøi Hoøang-quoâc-Vieät laøm chuû tòch) (theo Vieät-Thöôøng)
19/ Noùi caùi gì cuõng vieän daån lôøi Karl Marx, Lenine, Mao trạch Đ6ng, Hoà chí Minh.
20/ VC coù kieåu ngoài choø hoû raát ñoäc ñaùo.
21/ VC ñi metting ñem boâ theo ñi tieåu vì chuùng khoâng coù nhaø veä sinh.
22/ VC baét daân taäp theå duïc taäp theå vaø hoâ nhòp ñoäng taùc.
23/ Treân thì haàu haï hoái loä, döôùùi thì xu nònh.
24/ */ Ñaïi taùo laø beáp naáu cho binh lính, xaõ vieân nhöõng ngöôøi VC toân laøm “Chuû nhaân oâng” cuûa Ñaát nöôùc, chuû yeáu laø ñoän nhieàu hôn côm vaø “canh ñaïi döông “ loûng boûng nöôùc.
*/ Trung taùo daønh cho caùn boä, Só quan trung caáp thöùc aên khaù hôn vaø côm ít ñoän hôn.
*/ Tieåu taùo thì cho boïn Caùn-boä, vieân chöùc tham möu töø caáp Trung ñoaøn hoaëc Sö ñoaøn trôû leân, côm vaø thöùc aên ñaày ñuû dö thöøa.
*/ Ñaëc taùo laø cheá ñoä khaåu phaàn daëc-bieät cho“ ñaày tôù daân “ nghóa laø töø caáp thuû tröôûng Trung ñoaøn hoaëc Trung öông ñaûng trôû leân.
25/ Xai-coâ : Seiko là tên một loïai ñoàng hoà ñeo tay cuûa Nhaät, rất thònh haønh thôøi VNCH
26/ Xe Rim : Xe gaén maùy Honda cuûa Nhaät hieäu Dream raát ñöôïc öa chuoäng vì di chuyeån tieän lôïi.
27/ Thaàn-Quy : Thaàn Kim Quy laáy moùng chaân cho An-Döông Vöông laøm noû thaàn. Laàn thöù hai xuaát hieän vaø trao göôm baùu cho Leâ-Lôïi cöùu Nöôùc
28/ Ñoàng-só-Nguyeân laø Nguyeãn-vaên-Ñoång Trung Taù VC y ñaõ taøn saùt giaùo daân Ba laøng ñeå thöïc hieän aâm möu ngaên caûn giaùo daân di cö vaøo Nam naêm 1954 nhôø ñoù y ñöôïc ñeà baït vaøo Boä Chinh-Trò, giöõ chöùc Phoù Thuû Töôùng VC (Theo Vieät-Thuôøng ).
29/ VC ngaên caûn vieäc truyeàn ñaïo Tin Laønh baèøng caùch taøn saùt khoaûng hôn moät vaïn ñoàng baøo ngöôøi saéc toäc Meøo vaøo cuoái naêm 1961 do Toá-Höõu chuû tröông vaø Döông-Thoâng (Phuï traùch cô
Quan An Ninh Trung Ương đảng Lao Động ) thi hành (theo Việt Thường)
30/ Töôïng Toâ-Thò (Hoøn voïng-Phu) bò boïn VC quaät nhaøo deå nung laáy voâi.
31/ Hôïp ñoàng: laø một từ ngữ maø coäng-saûn goïi cho chieán thuaät ñaùnh phoái hôïp giuõa caùc quaân binh chuûng
32/ Gaùi noâng tröôøng: Ai cuõng coù theå nguû ñöôïc.
33/ Giöôøng beänh xaù: hai, ba ngöôøi beänh naèm chung moät giöôøng.
34/ Maù vaên coâng: Heå laø caùn boä cao caáp ñeàu coù theå hoân maù caùc coâ vaên coâng ñöôïc.
35/ Moâng boä ñoäi : Bò ñaûng ñaù ñít khi ñaõ heát xaøi
36/ Aên qua loa: Aên ñoùi, thieáu aên.
37/ Maëc aùo da : ôû traàn.
38/ Nhaø ñieän töû : töû = cheát. Ñieän töû toái thui khoâng coù ñeøn.
39/ Xe coá vaán: Coá = coá söùc; vaán = laáy vaûi vaán quanh. Xe ñaïp bò hö ruoät hay voû, laáy vaûi coá (söùc) vaán quanh nieàn xe ñeå ñi taïm.
40/ Đặc biệt, sau 30.4.75 coù moät ngheà môùi laø ñi cuoác maõ ñeå laáy taøi saûn töø caùc ngoâi moä nhö vaøng, tieàn, quan taøi...
41/ Qủy là chữ biến tướng từ chữ Ủy ( ủy ban, cấp ủy…) – khi cộng sản cưỡng chiếm đuợc miền Nam các hệ thống hành chánh công quyền hay dảng bộ cộng sản đều được khởi đấu bằng Ủy như Ủy ban hành chánh xã, huyệ, tỉnh hoặc về đảng ủy thì xã ủy, huyện ủy, tỉnh ủy….) Vì caêm gheùt boïn VC caàm quyeàn, neân ngöôøi daân noùi traiï töø Uûy thaønh chöõ Quyû.
42/ Ba möôi: Ngay trong ngaøy 30.4.1975 vaø nhöõng ngaøy sau ñoù, moät boïn löu manh, thuoäc teä ñoan xaõ hoäi huøa theo coäng-saûn, chuùng mang baêng ñoû lam tay sai, chæ ñieãm, baét bôù, ñaùnh ñaäp, saùt haïi löông daân vaø nhöõng nguôøi phuïc vuï cho cheá ñoä VNCH.
43/ Hoï Vi: Trung Töôùùng Trung-Coäng Vi Quoác-Khanh ( hay Thanh ?) Xem theâm soá 54 keá tieáp.
44/ Quyù Ba: Lã Qúy Ba, Laõ-Quyù-Ba, Trần Canh. Là ba tên trung töôùng do Mao-Traïch-Ñoâng phaùi qua tröïc-tieáp chæ huy traän Ñieän-Bieân-Phuû (Voõ-Nguyeân-Giaùp luùc naày ñöôïc Trung-Coäng cho du hí vôùi caùc coâ gaùi ngöôøi Thaùi traéng), Giaùp chæ ñöùng teân möôïn tieáng maø thoâi.
45/ *-/ Lạc tức Đỗ thị Lạc nữ đồng chí với và đã có một con gái với Hồ chí Minh và bị chết một cách bí mật (Theo dọc đường gió bụi của cu Trần Trọng Kim)
*-/ Xuân tức Nông thị Xuân người sắc tộc Tày, cán bộ hộ lý cho Hồ lúc cô xuân mới khỏang 18 tuổi và Hồ chí Minh đã trên 65 tuổi. Khi Hồ cưỡng bức cô Xuân tại Phủ chủ tịch tại Hà Nội và sinh được Nguyễn tất Trung thì cô Xuân đòi công khai hôn thú và Hồ chí Minh ra lệnh cho Trần quốc Hoàn Ủy viên Bộ chính tri đảng CSVN bộ trưởng công an dánh chết và giả tạo ra vụ án tai nạn.
*-/ Trưng tức Nông thị Phác cũng sắc tộc Tày làm hộ lý cho Hồ chí Minh tại hang Pắc Pó, Hồ chí Minh đổi tên cho Nông thị Phác thành Nông thị Trưng. Tuy chưa được khẳng định, nhưng nhiều nguồn tin nghi ngờ rằng Nông đức Mạnh là con của bà Trưng (tức Phác) với Hồ chí Minh
46/ “Ủng-hoä tyù : caùch noùi cuûa boïn caùn binh, caùn boä coäng-saûn moãi khi eùp buoäc phuï nöû phuïc vuï sinh lyù thuù tính cho chuùng.
47/ Trại lán: Trại là trại giam.
Lán là nhà nhỏ.
Dưới chế độ CSVN thì trại lán có nghĩa là nhà ở của tù được dựng trong trại giam
Phụ bản I:
Thư Tố Cáo
(Hồ sơ Mật lưu trữ tại văn phòng Chủ tịch Quốc Hội)
Cao Bằng ngày 29 tháng 7 năm 1983
Kính gửi ông Nguyễn Hữu Thọ
Chủ tịch Quốc hội Nước CHXHCNVN.
Tôi là một thương binh đã 25 năm nay vô cùng đau khổ, không dám hé răng với ai. Không phải chỉ vì vết thương bom đạn, chiến tranh mà là một vết thương lòng vô cùng nhức nhối. Nay tôi sắp được từ giả cái xã hội vô cùng đen tối này đi sang thế giới khác, tôi phải chạy vạy rất khó khăn mới viết được bức thư này lên Chủ tịch, hy vọng ông còn lương tri, lương tâm đem ra ánh sáng một vụ bê bối vô cùng nghiêm trọng tàn ác, mà người vợ chưa cưới của tôi là một nạn nhân. Nay tôi hy vọng những tên hung thủ được lột mặt nạ trước công chúng, không để chúng ngồi trên đầu trên cổ nhân dân.
Nguyên từ năm 1954 tôi có người yêu tên Nguyễn Thị Vàng 22 tuổi quê làng Hà Mạ, xã Hồng Việt, huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng. Cô Vàng có người chị họ là Nguyễn Thị Xuân tình nguyện vào công tác hộ lý trong một đơn vị quân nhu. Được mấy tháng sau ông Trần Đăng Ninh, Tổng Cục trưởng cục Hậu Cần mấy lần đến gặp cô Xuân. Đầu năm 1955 thì đem xe đến đón về Hànội, nói là để phục vụ bác Hồ. Được mấy tháng sau thì cô Xuân cũng xin cho cô Vàng về Hànội, ở trên gác nhà 66 Hàng Bông Nhuộm với cô Xuân.
Đã luôn 2 năm tôi chỉ được tiếp thư chứ không được gặp cô Vàng, người yêu của tôi. Nhưng khoảng tháng 10 năm 1957 tôi bị thương nhẹ được đưa về điều trị tại bệnh viện huyện Hoà An. Chúng tôi vô cùng sung sướng lại được gặp nhau. Trong một tuần lễ cô Vàng kể lại mọi nỗi đau xót cô đã gặp phải cho tôi nghe. Tôi xin ghi lại tĩ mĩ những lời cô Vàng tâm sự với tôi, mà không bao giờ tôi có thể quên đi được. Vàng kể :
- Đầu năm 1955 cô Xuân được về gặp bác Hồ. Bác Hồ định lấy cô Xuân làm vợ chính thức. Mấy tháng sau chị Xuân xin cho em cùng về ở trên gác 66 Hàng Bông Nhuộm, Hànội. Còn tầng dưới thì cho ông Nguyễn Quí Kiên, Chánh văn phòng Thủ tướng phủ ở. Vì các lãnh đạo không cho chị Xuân cùng ở với Bác trên nhà chủ tịch phủ, giao cho ông Trần Quốc Hoàn, Bộ trưởng Công an trực tiếp quản lý chị Xuân, cho nên chị Xuân mới được đem về ở 66 Hàng Bông Nhuộm, nhà của Công an.
Cuối năm 1956 chị Xuân sinh được một cậu con trai đặt tên Nguyễn Tất Trung. Em có nhiệm vụ bế cháu. Ông bộ trưởng công an có nhiệm vụ quản lý chị Xuân nên thường đến luôn. Nhưng một buổi tối vào khoảng mồng 6 hay mồng 7 tháng 2 năm 1957, ông Hoàn tới, ngồi nói chuyện vu vơ một tí rồi nắm tay chị Xuân, kéo vào một cái buồng xép, từ cầu thang đi lên, vật chị Xuân lên một cái giường nhỏ, định hãm hiếp. Chị Xuân bị nhét khăn vào miệng nhưng vẫn ú ớ la lên. Em hoảng sợ la tru tréo. Còn chị Nguyệt sợ quá, rúm người lại ngồi một góc tường. Nghe tiếng cửa sổ nhà dưới xô xầm vào tường, lão Hoàn bỏ chị Xuân ra, rút khẩu súng lục trong túi áo hoa lên nói to : "Chúng mày im mồm, không ông cho chết hết" rồi hầm hầm chạy xuống thang ra ô tô chuồn.
Chị Xuân thất thểu đi ra khóc nức nở, ôm choàng lấy em. Em hỏi nó nắm tay chị, sao chị không văng vào mặt nó để nó dắt đi ? Chị Xuân vừa nức nở vừa nói : Đau khổ nhục nhã lắm ! Chị phải nói hết để các em tha tội cho chị. Từ hôm chị mới về nhà này, có một bà già độ 60 tuổi ở buồng dưới nhà, vợ một cán bộ công an đã chết, lên thân mật nói chyện với chị rằng: Sao cô ở đây một mình ? Bạn đàn bà để tôi nói thật cho cô biết. Cái lão đem cô về đây là một tên côn đồ lưu manh, dâm ô tàn ác vô kể. Tôi xin kể một vài chuyện cho cô nghe. Ông Long Khánh Thiện, một ủy viên trung ương, bị đế quốc Pháp giết có con gái tên là Bình. Chị Đường vợ anh Thiện đem con gái nhờ bác Hoàn tác thành cho. Lão Hoàn đã hiếp nó, nó chửa rồi chọn một tên lưu manh vào làm công an để gã cô Bình làm vợ. Lão lại đem cô con gái có nhan sắc nhận là cháu, cũng hiếp cô gái này tới có chửa, rồi giết chết quăng xác xuống hồ Ha Le để khỏi mang tiếng. Cán bộ công an nhiều người biết chuyện của nó, nhưng không ai dám hở răng, vì sợ lão vu cho tội gì bắt giam rồi thủ tiêu.
Nghe chuyện đó chị cũng khủng khiếp, nhưng lại nghĩ là nó đối với mọi người khác, còn đối với mình thì nó đâu dám. Nhưng chỉ được mấy hôm sau chị nghe tiếng giầy đi nhè nhẹ lên gác, chị chạy ra thì thấy nó đi lên nhếch mép cười một cách xỏ lá. Nó chào chị rồi đi thẳng vào nhà, nó ôm ghì lấy chị vào lòng rồi hôn chị. Chị xô nó ra nói : "Không được hỗn, tôi là vợ ông chủ tịch nước".
Nó cười một cách nhạo báng : "Tôi biết bà to lắm nhưng sinh mệnh bà nằm trong tay tôi". Nó lại nói "Sinh mệnh tất cả dân tộc VN, kể cả bố mẹ anh chị nhà bà cũng nằm trong tay tôi. Tôi muốn bắt ở tù, thủ tiêu đứa nào tùy ý. Và tôi nói cho bà biết cụ già nhà bà cũng không ngoài tay với của tôi". Rồi nó rút khẩu súng lục dí vào ngực chị. Chị ngồi xụp xuống ghế nói : "Anh cứ bắn đi".
Nó cuời khì khì : "Tôi chưa dại gì bắn. Tôi tặng bà vật khác". Nó dắt súng vào túi quần rồi rút ra một sợi dây dù to bằng chiếc đủa, đã thắt sẵn một cái thòng lọng. Nó quàng cái tròng vào cổ chị rồi kéo chị đi lại cái giường kia, đẩy chị nằm xuống, rồi đầu sợi dây nó buộc vào chân giường. Chị khiếp sợ run như cầy sấy.
Nó nói : "Bây giờ bà muốn chết tôi cho bà chết." Rồi nó lột hết quần áo chị, nó ngồi xuống nó ngắm nghía ngâm nga :
Rõ ràng trong ngọc trắng ngà, đào nguyên lại lối đâu mà đến đây ?
Phẩm tiên đã đến tay phàm, thì vin cành quít cho cam sự đời.
Rồi nó nằm đè lên hiếp chị. Chị xấu hổ lấy tay che mặt. Nó kéo tay chị nói : "Thanh niên nó phục vụ không khoái hơn ông già mà còn vờ làm gái". Xong nó cởi thòng lọng cho chị, rồi nó ngồi bên chị tán tỉnh hàng giờ : "Anh thương em lắm. Người ta gặp hạnh phúc phải biết hưởng hạnh phúc. Nếu em thuận tình thì muốn gì cũng có. Nó đeo vào tay chị một chiếc nhẫn vàng, chị đã ném vào nhà xí.
Nó lại dặn : "Việc này phải tuyệt đối giữ bí mật, nếu hở ra thì mất mạng cả lũ và tôi cho cô biết ông cụ tin tôi hơn cô". Rồi từ đó chị biến thành trò chơi của nó. Thấy bóng dáng nó chị như một con mèo nhìn thấy con cọp, hồn vía lên mây. Nó muốn làm gì thì tùy ý nó. Trong mấy tháng trời chị tính quẩn lo quanh, không biết tâm sự với ai mà không làm sao thoát khỏi nanh vuốt của nó. Nhớ lại lời nói của bà già, chị liền xin bác cho hai em về đây, mong tránh được mặt nó. Nhưng những hôm công an gọi các em đi làm hộ khẩu, đi làm chứng minh thư lâu hàng buổi là nó tới hành hạ chị. Nó bảo chị phải nói cho hai em biết. Phải biết câm cái miệng nếu bép xép thì mất mạng cả lũ. Hôm nay nó lại đây trắng trợn như vậy vì nó tưởng chị đã dặn hai em rồi. Bây giờ việc đã xẩy ra chị thấy rất nguy hiểm.
Em nói : "Hay là chị em ta trốn đi".
Chị Xuân nói : "Sau ngày sinh cháu Trung, chị thưa với bác, bây giờ đã có con trai, xin bác cho mẹ con ra công khai".
Bác nói : "Cô xin như vậy là hợp tình, hợp lý. Nhưng phải được Bộ Chính trị đồng ý, nhất là mấy ông Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt đồng ý mới được. Do đó cô đành phải chờ một thời gian nữa".
Mấy tuần trước bác lại hỏi chị ; "Các cô ở đó có nhiều người lạ tới thăm phải không ?" Chị thưa "Ba chị em không có ai quen biết ở Hànội. Còn bà con ở Cao Bằng không biết chị em ở đâu". Bác nói : "Không nhẽ ông Bộ trưởng công an nói dối ?"
Chị suy nghĩ mãi mới thấy rõ, nó muốn vu cáo chị em ta liên hệ với gián điệp hoặc đặc vụ gì đó để định kế thoát thân nếu việc của nó bị bại lộ. Bây giờ ta trốn cũng không làm sao thoát khỏi tay nó, mà nó còn vu cáo giết hại ba chị em chúng ta. Chị Xuân nói : "Chị bị giết cũng đáng đời, chị rất hối hận xin hai em về đây để chịu chung số phận với chị".
Em thấy nguy hiểm vì tên Hoàn đã nổi tiếng ở Bộ Công an là một tên dâm bôn vô cùng tàn ác. Đến độ một tuần sau, vào 7 giờ tối ngày 11 tháng 2 năm 1957, ngày em còn nhớ như đinh đóng cột. Một chiếc xe com măng ca thường đón chị Xuân lên gặp bác Hồ, anh Ninh xồm, người bảo vệ Trần Quốc Hoàn chuyển lên bảo vệ bác, vào gặp chị Xuân nói lên gặp bác. Chị Xuân mặc quần áo, xoa nước hoa rồi ra đi. Sang hôm sau, 12 tháng 2, một nhân viên công an Hànội đến báo tin chị Xuân gặp tai nạn ô tô chết rồi, hiện còn để ở nhà xác bệnh viện Phủ Doãn. Em hốt hoảng đưa cháu cho chị Nguyệt, ra lên xe công an vào bệnh viện. Em không được vô nhà xác, họ nói còn mổ tử thi. Lên một phòng chờ em thấy trong phòng đã khá đông người: Công an, Toà án, Kiểm sát viên.
Sau một tiếng, hai bác sĩ, một cán bộ công an, một kiểm sát viên lên phòng chờ, đem theo một tờ biên bản đọc to lên cho mọi người nghe. Tử thi không có thương tích gì, thấy rõ không bị tai nạn ô tô và cũng không phải bị đâm chém đánh đập gì. Mổ tử thi trong cơ thể lục phủ ngũ tạng không có thương tích gì. Dạ dầy không có thức ăn, không có thuốc độc. Tử cung không có tinh trùng biểu thị không bị hiếp dâm. Duy chỉ có xương đỉnh đầu bị rạn nứt. Mổ sọ não không còn óc, mà chỉ còn nước nhờn chảy tuôn ra. Bác sĩ tuyên bố đây có thể bị chùm chăn lên đầu rồi dùng búa đánh vào giữa đầu. Đây là phuơng pháp giết nguời của bọn lưu manh chuyên nghiệp của nhiều nước đã xử dụng.
Em vô cùng đau khổ chạy về kể chuyện cho chị Nguyệt nghe để hai chị em cùng khóc. Ít lâu sau, một cán bộ công an đến bế cháu Trung đi, chúng em không được biết đem đi đâu. Rồi em thì được đi học một lớp y tá của khu tự trị Việt Bắc ở Thái nguyên. Chị Nguyệt không biết họ cho đi đâu, sống chết thế nào. Học mấy tháng thì em được chuyển về bệnh viện Cao Bằng, em khóc luôn, họ cho em là bịnh thần kinh nên cho về đây điều trị. May lại được gặp anh kể hết mọi chuyện cho anh nghe. Em nghĩ anh chỉ bị thương nhẹ, anh còn sống được lâu anh sẽ nói rõ cho toàn dân biết được vụ bê bối này. Còn em thì chắc chắn sẽ bị chúng giết vì em đã nói vụ này cho nhiều chị em bà con biết. Bọn hung thủ còn theo dõi em. Ở Cao Bằng có hôm em thấy thằng Ninh xồm tới gặp ông bác sĩ bệnh viện trường, được ít hôm họ tuyên bố em bệnh thần kinh được chuyển về điều trị tại Hoà An.
Tôi chỉ được gặp Vàng em tôi có một tháng, đến ngày mồng 2 tháng 11 năm 1957 cô Vàng đi về thăm ông cậu Hoàng Văn Đệ. Hung thủ đi theo rồi giết chết em tôi quăng xuống sông Bằng Giang đến ngày mồng 5-11 mới nổi lên ở cầu Hoàng Bồ. Tôi được tin sửng sốt chạy về Hoàng Bồ thì thi hài đã được kiểm nghiệm và chôn cất rồi. Nghe dư luận xôn xao bị đánh vỡ sọ, đồng hồ vẫn còn nguyên và người nhà đã nhận về chôn cất. Tôi đâm bổ về Hànội liên lạc được với một cậu bạn cùng học làm việc ở Toà án Hànội. Tôi kể vụ án em tôi bị giết thì bạn tôi sao cho tôi bản công văn Viện Kiểm sát hỏi toà án về vụ em tôi và cô Xuân bị giết. Tôi xin sao bản văn đó trình ông để tiện việc điều tra. Vụ này nhiều người bị giết. Cô Xuân, vợ cụ Hồ Chí Minh, cô Vàng, vợ chưa cưới của tôi, cô Nguyệt, còn nhiều người ở Trường y tá Thái nguyên nghe chuyện Vàng kể đi nói chuyện lại cũng bị giết lây.
Mấy chục năm nay tôi tím gan thắt ruột, nghĩ cách trả thù cho em tôi nhưng sức yếu cô thế đành ngậm hờn chờ chết. Theo Vàng dặn lại, tôi liên hệ với một số cán bộ về hưu công an, kiểm sát họ cho tôi biết cậu Trung ngày đó đã được đưa về cụ Bằng nuôi. Độ 4, 5 tuổi thì gửi cho Chu Văn Tấn, đến năm 13 tuổi là năm 1969 ngày bác Hồ mất thì giao cho ông Vũ Ký, nguyên thư ký của bác, nay là Phó Giám đốc bảo tàng Hồ chí Minh làm con nuôi. Vũ Ký có 2 con đẻ là Vũ Vinh và Vũ Quang, còn Vũ Trung là con nuôi, là con chị Xuân với bác Hồ. Tôi một thuơng binh sắp đi qua thế giới khác, máu hoà nuớc mắt viết thư này nhờ một nguời bạn chí tình, thành tâm bảo vệ lẽ phải, đánh máy bức thư gởi tới trình ông. Mong ông lưu ý xét cho mấy việc :
1.- Các ông sẵn lòng bảo vệ chân lý điều tra cho ra những đứa chủ mưu, thủ ác, chứ không truy xét những người có lương tâm phát hiện lũ gian ác.
2.- Ở xã Hồng Việt bà con bạn hữu chị Xuân vào trạc tuổi 45 trở lên còn khá nhiều đều biết rõ ràng cô Vàng, cô Xuân, cô Nguyệt và chắc gia đình của cô Xuân còn khá nhiều di vật của cô Xuân. Nhưng tất cả mọi người đều khiếp sợ, không dám hé răng. Mong ông cho điều tra thận trọng, bí mật, vì việc điều tra này bị lộ thì cả lô bà con này bị thủ tiêu.
3.- Cậu Nguyễn Tất Trung còn sống khoẻ mạnh nhưng việc điều tra lộ ra thì cậu cũng dễ dàng bị thủ tiêu. Tên hung thủ lái xe đón bà Xuân đi giết là Tạ Quang Chiến hiện nay là Tổng cục phó Tổng cục thể thao. Còn tên Ninh xồm thì chúng tôi không biết đã leo lên chức vụ nào rồi.
Từ thế giới khác kính chúc ngài nhiều hạnh phúc.
Vợ chồng Nguyễn Thị Vàng
Phụ bản II
Lần gặp bác Hồ tôi bị mất trinh
Năm 1964, tôi được cơ quan và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam cho ra miền Bắc học văn hoá, đi bộ trên 3 tháng vượt Trường Sơn ra Hà Nội. Trường Hành Chính gần Cầu Giấy, Hà Nội là nơi đón tiếp chúng tôi đầu tiên. Năm đó tôi mới 15 tuổi. Bởi vì sống trong vùng tạm chiếm của Mỹ - Diệm nên hiểu biết của tôi về Bác Hồ rất chi là ít ỏi.
Tôi đã sớm giác ngộ cách mạng, đã tham gia làm giao liên hợp pháp cho Thành uỷ, Biệt động thành Đà Nẵng và Huyện uỷ Điện Bàn, Đại Lộc. Cho đến khi lên chiến khu, tôi được ba tôi và các chú trong cơ quan dạy bảo thêm về tiểu sử của "Bác Hồ" - nhà ái quốc vĩ đại của dân tộc ta. Phải lúc bấy giờ " Bác " như là thần thánh trong đầu tôi. Trước khi tôi ra miền Bắc, ba mẹ tôi ôm tôi ngồi trên chõng tre căn dặn : “Con ơi, ra đến miền Bắc nếu được gặp Bác Hồ, con nói ba mẹ và gia đình mình cũng như các cô chú trong cơ quan gởi lời thăm sức khoẻ của Bác. Con phải cố gắng học thật tốt để sau này về phụng sự quê hương nghe con”. Lúc đó tôi chỉ biết im lặng.
Thật là vinh dự biết bao cho bản thân, gia đình và quê hương chúng tôi, tôi có tên trong danh sách gặp Bác Hồ. Đó là lúc 17 giờ ngày 30/08/1964. Sau khi ăn cơm chiều về có lệnh tập trung, bác Tố-Hữu, người phụ trách chung, nói : “Các cháu có danh sách sau đây ở lại cùng với anh Hanh phụ trách đội thiếu niên tiền phong”. Bác Hữu đọc : “… Lập, Lộc, Dung (con bác Nguyễn Hữu Thọ), Đệ, Hoà (Khánh Hoà), Độ, Đâu và Thanh, Kiến (QNĐN)”. Bác Hữu nói : “Các cháu chuẩn bị tư trang, sau 20 phút tập trung lên xe và được đi gặp Bác Hồ”. Nghe vậy, tất cả chúng tôi có tên trong danh sách reo ầm cả lên làm vang dội cả phòng. Trong lòng ai nấy đều phấn khởi chạy về phòng thay áo quần, quàng khăn đỏ, chải đầu tóc gọn gàng rồi chạy xuống cầu thang (lúc đó chúng tôi ở tầng 3 nhà A1 của Trường hành chính Hà Nội). Xuống khỏi cầu thang chúng tôi thấy có 4 xe đậu trước cửa, 2 xe Vônga - 1 xe màu đen, 1 xe màu cà phê sữa - và 2 xe com măng ca màu rêu. Tôi nhanh chân nhảy lên chiếc xe Vônga ở gần cùng với Ba Đen và anh Hanh phụ trách. Đoàn chúng tôi gồm 16 người lên xe đầy đủ. Chiếc xe từ từ lăn bánh rẽ tay trái đến cầu Giấy đi thẳng đường đê Bưởi rồi rẽ phải vào đường Hoàng Hoa Thám, đến đường Hùng Vương chạy từ từ và dừng lại. Một chú công an mở cổng và đoàn chúng tôi đi bộ vào dọc theo con đường rải đá sỏi nhỏ, hai bên trồng nhiều cây cảnh đều và gọn đẹp.
Gần đến nhà khách, chúng tôi thấy xuất hiện ông già mặc bộ đồ kaki màu xám với đôi dép cao su đen đang từ từ đi ra nở nụ cười phúc hậu. Bỗng anh Hanh và tất cả chúng tôi reo lên : “Bác Hồ !” rồi thi nhau chạy đến ôm chầm lấy Bác. Chúng tôi tranh nhau ôm chặt lấy Bác, còn Bác thì xoa đầu và vỗ lưng chúng tôi rồi Bác dẫn chúng tôi cùng đi vào nhà và bước lên cầu thang tầng 2. Chúng tôi ríu rít như đàn chim được tụ về tổ ấm. Lên khỏi cầu thang rẽ tay phải đi vào phòng họp mặt, lúc đó chúng tôi và các chú, các bác đi cùng với Bác ngồi vào từng ghế quây quần xung quanh chiếc bàn lớn. Câu đầu tiên Bác nói : “Dân chố gộ có mặt đây không ?” (ý nói vui người dân QNĐN). Bạn Dung ngồi gần chọc nách và nói “có ạ”. Bác nói tiếp : “Dân dưa cải mắm cái có không ?” (ý nói chỉ người địa phương Quảng Ngãi), tất cả chỉ qua phía Ba Đen (người dân tộc Tây Nguyên) Ba-Đen nói “có ạ”. Bác lại nói : “Dân đầu gấu (đầu gối chân) có không ?” (ý nói người quê ở Phú Yên, Khánh Hoà, Bình Thuận). Tất cả chúng tôi rất khó chịu với sự giả tiếng và hỏi một cách kỳ cục của Bác, Sau đó Bác chỉ qua phía bạn Hoà, rồi Bác nói tiếp : “Các cháu ăn mích chính ích ích thôi nghen” (ý nói quê ở Nam Bộ). Tất cả lại chúng tôi lại không biết Bác nói gì nữa, sao bác dễu dỡ quá vậy, những gì tôi học được về Bác khi còn ở miền Nam hoàn toàn ngược lại khi tôi gặp con ngươì bác thật sự.
Bác nói : “Hôm nay là ngày vui mà Bác cháu chúng ta gặp nhau như vậy chúng ta lại hát bài Kết đoàn”. Bác vẫy tay bắt nhịp cùng chúng tôi, hội trường lúc này ngày càng tươi vui náo nhiệt. “Kết đoàn chúng ta là sức mạnh, kết đoàn chúng ta là sắt gang ...”. Khi mà chúng tôi say sưa hát thì bác đi bóp vai những đứa con gaí, tới chổ tôi thì bác không những xoa lưng tôi mà bac còn để cho bàn tay đi xuống hai bờ mông của tôi xoa xoa bóp bóp làm cho tôi thâý rất là khó chịu, nhưng tôi không dám lên tiếng đành đứng yên chịu thôi. Trước mắt chúng tôi là bánh cức chó và kẹo bột cám ngào đường và nước chè xanh mà Bác cho dọn sẵn, Bác nói : “Mời các cháu cùng ăn với các bác cho vui”. Nói xong, Bác giới thiệu với chúng tôi : “Bác là Hồ Chí Minh, còn đây là bác Phạm Văn Đồng, người dưa cải đấy ! Và đây là bác Trường Chinh, bác Võ Nguyên Giáp, bác Lê Thanh Nghị, các bác ở Bộ Chính Trị hôm nay cũng có mặt với các cháu”. Bác đang nói thì thấy một ông già từ từ đi vào, miệng cười, vừa đi vừa vỗ tay, Bác Hồ giới thiệu luôn : “Đây là bác Tôn của các cháu”, cả phòng lại vỗ tay một lần nữa. Bác đi đến từng người trong chúng tôi và ôm hôn mỗi người một cái.
Đến lượt tôi được Bác hôn vào môi tôi một cách say đắm lưỡi của bác còn thò vào miệng tôi ngoáy ngoáy, ngay lập tức tôi nhổm dậy và né khuôn mặt tôi qua một bên. Lúc này tôi muốn nói về tình cảm gia đình tôi, quê hương tôi với Bác nhưng bàn tay của bác không chịu dừng lại sau bờ mông của tôi, còn tôi thì nghẹn ngào và mắc cỡ rôì Bác lướt qua bạn bên cạnh. Tự dưng tôi chảy nước mắt, tôi thấy Bác Hồ này có gì kỳ cục quá không giống như bác hồ mà chúng tôi học được trong miền Nam ... Bác nói : “Bây giờ có cháu nào đứng lên hát cho các chú và các bác ở đây nghe một bài nào ?”. Lúc này các bạn nhìn lẫn nhau vì đột ngột quá và thấy mắc cỡ không ai chuẩn bị kịp. Sau đó, anh Hanh chỉ Dung hát một bài. Bạn Dung hát : “Ngày con mới ra miền Bắc con còn bé xíu như là cái hạt tiêu ...”, hát xong Dung nhận được một tràng vỗ tay khích lệ. Đến bạn Hoà mạnh dạn đứng lên hát bài : “Vui họp mặt. Từ ngàn phương về đây cùng nhau đoàn kết cùng đi tới tương lai ...”, lại một tràng vỗ tay khích lệ nữa vang lên. Sau đó Bác nói : “Bác đại diện các chú ở đây căn dặn các cháu mấy điều. Bác biết các cháu ngồi đây là ở khắp các địa phương của miền Nam, Bác muốn gặp tất cả các cháu cũng như gia đình của các cháu và toàn thể đồng bào miền Nam song điều kiện chưa cho phép, đất nước đang bị chia cắt nhưng các cháu tin tưởng một ngày không xa Tổ Quốc ta được thống nhất, gia đình chúng ta được sum họp, Bác sẽ có điều kiện đi thăm hỏi. Các cháu viết thư hoặc nhắn tin cho gia đình là Bác và các chú ở đây gửi lời thăm gia đình và bạn bè các cháu ở miền Nam”. Một tràng vỗ tay nữa lại vang lên trong không khí trang nghiêm và ấm cúng. Bác Hồ nói tiếp : “Các cháu đã ra đến miền Bắc xã hội chủ nghĩa rồi đấy. Bác mong các cháu ngoan, học giỏi để xứng đáng là cháu ngoan của Bác. Các cháu là những " hạt giống đỏ " của đồng bào miền Nam gửi ra đây học tập cho nên phải làm sao cho xứng đáng với lòng mong mỏi đó. Bác chúc các cháu ngoan, khoẻ, vui và học tập thật giỏi”. Nói xong, Bác Hồ quay qua bên cạnh hỏi : “Các chú có ý kiến chi không ?” (ý hỏi ý kiến các bác trong Bộ Chính trị có mặt lúc đó). Các bác đều không nói thêm và tán thành ý kiến với Bác. Bác nói tiếp : “Bây giờ các cháu xuống dưới xem phim”. Chúng tôi đứng lên và đi xuống với Bác, bạn thì đi cạnh bác Tôn, bạn thì đi cạnh bác Đồng, bác Duẩn, bác Chinh, bác Giáp, bác Nghị ...
Vào phòng chiếu phim ở tầng 1, Bác chiêu đãi bộ phim thiếu nhi miền Nam đánh Mỹ (phim hoạt hình). Lúc đó tự nhiên tôi thấy vinh dự đến lạ kỳ, một niềm vui khó tả, Bác Hồ ngồi cạnh tôi bác ôm chặc tôi, một tay choàng qua vai tôi và xoa xoa lên ngực tôi bộ ngực mớí lớn của một cô gái miền Nam.
Khi đèn phòng bật sáng Bác hỏi về gia đình tôi và cuộc hành trình của tôi đi bộ vượt Trường Sơn hơn 3 tháng như thế nào kể cho Bác nghe. Bác xoa đầu và hôn lên trán tôi hai cái rất lâu, tôi nhớ rất kỹ, tôi kể sơ về hoạt động giao liên của tôi cho Bác nghe và nhớ đến lời căn dặn của ba mẹ tôi cùng các chú trong cơ quan, ba tôi ở chiến khu Đại Lộc QNĐN thế nào. Ngồi một lúc, Bác đi qua bên con Hoa, Con Lan và tôi thâý bàn tay của bác cũng không bao giờ chịu làm biếng.
Đêm hôm đó tôi được một chị thư ký của bác nói nhỏ cho tôi biết là tôi hân hạnh được bác muốn cho gặp riêng bác, có những chuyện bác muốn hỏi tôi nhưng vì sáng nay đông quá bác không tiện. Khi tôi cùng chị Nhàng đi tớí chổ Bác ở thì tôi được chị Nhàng dẫn đi tắm rữa sạch sẽ và chị Nhàng nhìn tôi trong đôi mắt u buồn và tội nghiệp. Tôi được chị Nhàng dẫn đi qua môt hành lang, và tới phòng ngủ của bác, chị Nhàng gõ cữa 3 tiếng cánh cửa mở ra, chị Nhàng bảo tôi đi vào và chị xoay lưng bỏ đi. Khi tôi vào, Bác ôm chầm lấy tôi hôn môi tôi, hai tay bác xoa nắn khắp người tôi, Bác bóp 2 bờ ngực nhỏ của tôi, bác bóp mông tôi, bác bồng tôi lên thiều thào vào trong tai tôi :
- Để bác cấy hạt giống đỏ cho cháu, cháu mang về miền Nam cho bác nhé.
Bác bồng tôi lên gường hai tay bác đè tôi ra và lột áo quần tôi, Bác như một con cọp đói mồi. Sau một hồì kháng cự tôi biết mình không thể nào làm gì hơn nên đành nằm xuôi tay ... Hai hàng lệ một cô gái miền Nam vừa tròng 15 tuổi đã bị bác cướp đi mất cái trong trắng.
Những đêm sau mấy đứa con gái khác cũng được dẫn đi như tôi, tôi biết là chuyện gì sẽ xảy ra với chúng, nhưng chúng tôi không ai dám nói vớí ai lời nào. Và qua cái chết của con Lành và con Hoà thì những ngày sau đó chúng tôi sống trong hoang mang và sợ sệt không biết là khi nào tới phiên của mình.
Cho đến khi thống nhất nước nhà, ba mẹ tôi không còn nữa, đã hy sinh cho độc lập dân tộc song họ hàng tôi vẫn vui lòng bởi vì tôi đã thay mặt gia đình và các cô chú trong cơ quan cũng như bạn bè tôi được vinh dự gặp Bác Hồ. Nhưng có ai biết được rằng sau cái gọi là vinh danh gặp bác hồ là chuyện gì xảy ra đâu. Kể cã chồng tôi khi hỏi tới trinh tiêt' của tôi, tôi cũng không dám nói vì anh ấy là một đảng viên cao cấp là một người lảnh đạo của tỉnh QNDN. Tôi chỉ nói là khi đi công tác tôi bị bọn ngụy quân bắt tôi và hảm hiếp tôi, chứ làm sao tôi dám nói tôi bị hảm hiếp lúc mơí 15 tuổỉ và bị hảm hiếp ngay phủ chủ tịch và chính là " Bác hồ " hảm hiếp tôi cho chồng tôi nghe.
Bây giờ ngồi đây tự điểm mặt lại trong số chúng tôi được vinh dự gặp Bác Hồ hơn 40 năm trước đây, chúng tôi đều trưởng thành, ngôì ngậm nguì nhớ laị những đứa bỏ xác laị trong phủ chủ tịch và không bao giờ về lại được miền Nam. Tự nghĩ lại, chúng tôi thấy rất thấm thía lời Bác Hồ đã dạy : “Bác sẽ cấy những hạt giống đỏ của của bác cho đồng bào miền Nam”.
Huỳnh Thị Thanh Xuân Quãng Nam - Đà Nẵng 02/09/2005
Phụ Bản III
Nội dung bản Công Hàm Bán Nước
Thủ Tướng Phủ
Nước Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hoà
Thưa Đồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ:
Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố , ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.
Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn
trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa trên mặt bể.
Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng./.
Hà-nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958
(Ấn ký)
PHẠM VĂN ĐỒNG
Thủ tướng Chính Phủ Nước Việt-nam Dân chủ Cộng Hòa
Kính gửi: Đồng chí CHU AN LAI
Tổng lý Quốc vụ viện
Nước Cộng hoà Nhân dân Trung-hoa tại BẮC KINH
—————————————————————————–
Trích từ nguồn:
http://news.xinhuanet.com/ziliao/2003-01/24/content_705061.htm
http://tw.people.com.cn/GB/14864/14919/860248.html
http://www.jincao.com/fa/law11.s01.htm
DECLARATION OF THE GOVERNMENT OF THE PEOPLE’S REPUBLIC OF CHINA ON THE TERRITORIAL SEA
(Approved by the 100th Session of the Standing Committee of the National People’s Congress on 4th September, 1958 )
The People’s Republic of China hereby announces:
(1) This width of the territorial sea of the People’s Republic of China is twelve national miles. This provision applies to all Territories of the People’s Republic of China, including the mainland China and offshore islands, Taiwan (separated from the mainland and offshore islands by high seas) and its surrounding islands, the Penghu Archipelago, the Dongsha Islands, the Xisha islands, the Zhongsha Islands, the Nansha Islands and other islands belonging to China.
(2) The straight lines linking each basic point at the mainland’s coasts and offshore outlying islands are regarded as base lines of the territorial sea of the mainland China and offshore islands. The waters extending twelve nautical miles away from the base lines are China’s territorial sea. The waters inside the base lines, including Bohai Bay and Giongzhou Strait, are China’s inland sea. The islands inside the base lines, including Dongyin Island, Gaodeng Island, Mazu Inland, Baiquan Island, Niaoqin Island, Big and Small Jinmen Islands, Dadam Island, Erdan Island and Dongding Island, are China’s inland sea islands.
(3) Without the permit of the government of the People’s Republic of China, all foreign aircrafts and military vessels shall not be allowed to enter China’s territorial sea and the sky above the territorial sea.
Any foreign vessel sailing in China’s territorial sea must comply with the relevant orders of the government of the People’s Republic of China.
(4) The above provisions (2) and (3) also apply to Taiwan and its surrounding islands, the Penghu Islands, the Dongsha Islands, the Xisha Islands, the Zhongsha Islands, the Nansha Islands and other islands belonging to China.
Taiwan and Penghu are still occupied with force by the USA. This is an illegality violating the People’s Republic of China’s territorial integrity and sovereignty. Taiwan and Penghu are waiting for recapture. The People’s Republic of China has rights to take all appropriate measures to recapture these places in due course. It is China’s internal affairs which should not be interfered by any foreign country.
Trích từ nguồn: http://law.hku.hk/clsourcebook/10033.htm
—————————————————————————–
Tuyên Bố của Chính Phủ Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc về Lãnh Hải
(Ðược thông qua trong kỳ họp thứ 100 của Ban Thường Trực Quốc Hội Nhân Dân ngày 4 tháng 9 năm 1958 )
Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc nay tuyên bố:
(1) Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
(2) Các đường thẳng nối liền mỗi điểm căn bản của bờ biển trên đất liền và các đảo ngoại biên ngoài khơi được xem là các đường căn bản của lãnh hải dọc theo đất liền Trung Quốc và các đảo ngoài khơi. Phần biển 12 hải lý tính ra từ các đường căn bản là hải phận của Trung Quốc. Phần biển bên trong các đường căn bản, kể cả vịnh Bohai và eo biển Giongzhou, là vùng nội hải của Trung Quốc. Các đảo bên trong các đường căn bản, kể cả đảo Dongyin, đảo Gaodeng, đảo Mazu, đảo Baiquan, đảo Niaoqin, đảo Ðại và Tiểu Jinmen, đảo Dadam, đảo Erdan, và đảo Dongdinh, là các đảo thuộc nội hải Trung Quốc.
(3) Nếu không có sự cho phép của Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, tất cả máy bay ngoại quốc và tàu bè quân sự không được xâm nhập hải phận Trung Quốc và vùng trời bao trên hải phận này. Bất cứ tàu bè ngoại quốc nào di chuyển trong hải phận Trung Quốc đều phải tuyên thủ các luật lệ liên hệ của Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc
(4) Ðiều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
Ðài Loan và Penghu hiện còn bị cưỡng chiếm bởi Hoa Kỳ. Ðây là hành động bất hợp pháp vi phạm sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc. Ðài Loan và Penghu đang chờ được chiếm lại. Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc có quyền dùng mọi biện pháp thích ứng để lấy lại các phần đất này trong tương lai. Các nước ngoại quốc không nên xen vào các vấn đề nội bộ của Trung Quốc
(Bản dịch của Trung Tâm Dữ Kiện)
Chú thích:
Quần đảo Tây Sa (tên tiếng Tàu Xisha) = Quần đảo Hoàng Sa = Paracel Islands
Quần đảo Nam Sa (tên tiếng Tàu Nansha) = Quần đảo Trường Sa = Spratly Islands
—————————————————————————–
Bản đồ tuyên bố lãnh hải của Trung Quốc
—————————————————————————–
Nghiên cứu của Todd Kelly đề cập đến Công Hàm Bán Nước
On 15 June 1956, two weeks after the RVN reiterated the Vietnamese claims to the Truong Sa Islands, the DRV Second Foreign Minister told the PRC Charge d’Affaires that “according to Vietnamese data, the Xisha and Nansha Islands are historically part of Chinese territory.”[65] Two years later, the PRC made a declaration defining its territorial waters. This declaration delineated the extent of Chinese territory and included the Truong Sa. In response, the DRV Prime Minister, Pham Van Dong, sent a formal note to PRC Premier Zhou Enlai stating that “The Government of the Democratic Republic of Viet Nam respects this decision.” [66]
————————————————————————
Ngày 15 tháng 6 năm 1956, hai tuần lễ sau khi Việt Nam Cộng Hoà (RVN) tái xác nhận chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa, Thứ trưởng Ngoại giao của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (DRV) đã nói với Ban Thường Vụ của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (PRC) rằng “theo những dữ kiện của Việt Nam thì quần đảo Hoàng Sa (Xisha) và quần đảo Trường Sa (Nansha) là một bộ phận lịch sử của lãnh thổ Trung quốc” . Hai năm sau đó, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa đã ra bản tuyên bố xác định lãnh hải của họ. Bản tuyên bố này đã vạch ra rõ ràng cái khoảng khu vực của lãnh thổ Trung quốc có bao gồm cả Trường Sa .
Để đáp lễ, Thủ tướng Viêt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (DRV), Phạm Văn Đồng đã gởi một bản công hàm đến Thủ tướng Trung quốc Chu Ân Lai, nhấn mạnh rằng “Chính Phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà tôn trọng quyết định này”.
Trích và lược dịch từ Vietnamese Claims to the Truong Sa Archipelago by Todd Kellyvà A Journal of the Southeast Asian Studies Student Association
DRV = Democratic Republic of Vietnam – Viêt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt Nam)
PRC = People’s Republic of China – Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (Trung-quốc)
RVN = Republic of Vietnam – Việt Nam Cộng Hòa (Nam Việt Nam)
—————————————————————————–
Bản đồ quảng cáo du lịch của Trung Quốc
——————————————————
Bách khoa Toàn thư Wikipedia đề cập đến Công Hàm Bán Nước
Quần đảo Hoàng Sa gồm hai nhóm đảo, nhóm đảo mà Việt Nam Cộng hòa bảo vệ và thực hiện được chủ quyền là nhóm Nguyệt Thiềm hay Trăng Khuyết (Crescent group) và nhóm Bắc đảo hay An Vĩnh/Tuyên Đức (Amphitrite group). Dưới thời Việt Nam Cộng hòa đã có đài khí tượng do Pháp xây, trực thuộc ty khí tượng Đà Nẵng và được bảo vệ bởi một tiểu đoàn thủy quân lục chiến.
Năm 1956, Hải quân Trung Quốc chiếm đóng đảo Phú Lâm (Woody Island) thuộc nhóm Bắc đảo.
Năm 1958, Trung Quốc cho công bố bản Tuyên ngôn Lãnh hải 4 điểm, trong đó có tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc bao gồm các đảo Đài Loan, Tây Sa (tức Hoàng Sa của Việt Nam) và Nam Sa (tức Trường Sa của Việt Nam), đảo Macclesfield (Trung Sa), quần đảo Bành Hồ (Pescadores)[1].
Vào giai đoạn này, Trung Quốc vẫn là đồng minh hậu thuẫn cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiến hành cuộc Chiến tranh Việt Nam chống lại Việt Nam Cộng hòa và Hoa Kỳ.
Ngày 22 tháng 9 năm 1958, báo Nhân Dân đăng công hàm của Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Quốc vụ Viện Trung Quốc, ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của chính phủ Trung Quốc quyết định về hải phận [2].
Năm 1961, chính phủ Việt Nam Cộng hòa ban hành sắc lệnh khẳng định chủ quyền Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam của Việt Nam Cộng hòa.
Trong thời gian 1964-1970, Hải quân Trung Quốc và Hải quân Việt Nam Cộng hòa chạm súng liên tục trên hải phận Hoàng Sa, nhưng không đưa đến thương vong [3]. Trong thời điểm đó, Việt Nam Cộng hòa cũng thiết lập một sân bay nhỏ tại đảo Hoàng Sa.
Trích từ Báck Khoa Toàn Thư Wikipedia
——————————————————
Bài viết của ký giả Frank Ching trên Tạp chí Kinh tế Viễn Ðông đề cập đến Công Hàm Bán Nước
Vấn đề Tranh chấp Chủ quyền trên Quần đảo Hoàng SaSaigon – Hanoi – Paracels Islands Dispute – 1974
Frank Ching (Far Eastern Economic Review, Feb. 10, 1994)
1) Tái thẩm định miền Nam Việt Nam
Chỉ có một số ít các chính phủ sẵn sàng thú nhận rằng họ đã phạm phải sai lầm, ngay cả khi những chính sách của họ cho thấy điều đó một cách rất rõ ràng. Lấy thí dụ như Việt Nam chẳng hạnKhi nước CHXHCN Việt Nam đã từ bỏ chủ nghĩa xã hội trên tất cả mọi mặt, ngoại trừ cái tên, thì họ vẫn ngần ngại không muốn thú nhận điều này. Chính sách kinh tế thị trường mà họ đang theo đuổi, dù sao, đã nói lên điều ngược lại.
Trong những năm chiến tranh, những trận đánh chống lại quân đội Mỹ và quân đội miền Nam Việt Nam, đã được chiến đấu dưới danh nghĩa của chủ nghĩa xã hội và nhận được sự ủng hộ của toàn thể thế giới cộng sản, đặc biệt là từ Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa. Những trận đánh này đã đòi hỏi một sự hy sinh nặng nề về xương máu và tài nguyên của đất nước, là một cái giá mà người Việt Nam vẫn tiếp tục phải trả cho đến ngày hôm nay khi nhà nước CSVN đang cố gắng, một cách rất muộn màng, đặt việc phát triển kinh tế lên trên ý thức hệ chính trị. Cái ý thức hệ đó trong quá khứ đã buộc Hà Nội phải lựa chọn những chính sách mà khi nhìn lại thì không có vẻ gì là khôn ngoan cả. Và việc bóp méo ý thức hệ này đã gây cho họ nhiều thứ rắc rối khác hơn là chỉ đưa họ vào tình trạng khó xử với các đồng chí cộng sản đàn anh của họ ở Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh. Ðôi khi nó cũng làm mờ mắt họ về những lập trường đứng đắn được khẳng định bởi kẻ thù của họ là chính phủ Sài Gòn . Trong những ngày đó, chế độ Hà Nội rất hăng hái trong việc lên án chính quyền miền Nam, cho họ là những con rối của Mỹ, là những kẻ đã bán đứng quyền lợi của nhân dân Việt Nam. Ngay cả lúc đó, một điều rõ ràng là những lời cáo buộc này đã không có căn cứ. Bây giờ, 20 năm sau, cũng lại một điều rõ ràng là đã có những lúc mà chính quyền Sài Gòn đã thật sự đứng lên cho quyền lợi của dân tộc Việt Nam, một cách vô cùng mạnh mẽ, hơn xa cả cái chính quyền tại Hà Nội.Một trường hợp để chứng minh cụ thể là vụ tranh chấp về quần đảo Hoàng Sa trên biển Nam Trung Hoa. Quần đảo Hoàng Sa, giống như quần đảo Trường Sa ở xa hơn về phía Nam, được tuyên bố chủ quyền bởi cả hai Trung Quốc và Việt Nam. Nhưng khi chế độ Hà Nội vẫn đang nhận viện trợ từ Bắc Kinh, thì họ im hơi lặng tiếng trong việc tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa. Quần đảo này đã bị chiếm đoạt bởi Trung Quốc sau một vụ đụng độ quân sự vào tháng Giêng năm 1974, lúc quân Trung Quốc đánh bại những người tự bảo vệ từ miền Nam Việt Nam. Từ đó, quần đảo này đã nằm dưới sự kiểm soát của Trung Quốc.
Sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt, có một sự bất đồng nhanh chóng giữa Bắc Kinh và Hà Nội, và chính quyền Hà Nội – vừa mới thống nhất với miền Nam – lại tái tuyên bố chủ quyền của mình trên quần đảo Hoàng Sa. Mặc dù đã có những cuộc đàm phán cao cấp giữa hai nước, nhưng vụ tranh chấp này vẫn chưa được giải quyết. Các chuyên gia của hai nước có hy vọng là sẽ gặp gỡ sớm sủa hơn để bàn thảo về những vấn đề chuyên môn, nhưng không chắc chắn là sẽ có một quyết định toàn bộ . Thật ra, một viên chức cao cấp của Việt Nam đã thú nhận rằng vấn đề sẽ được giải quyết bởi các thế hệ tương lai. Dù không muốn phán đoán về những giá trị của lời tuyên bố chủ quyền của bất cứ bên nào, một điều rõ ràng là cương vị của phía Việt Nam đã bị yếu thế hơn vì sự im hơi lặng tiếng của Hà Nội khi quân đội Trung Quốc chiếm đoạt quần đảo Hoàng Sa. Sự thiếu sót của Hà Nội để phản đối trước hành động quân sự của nước ngoài bây giờ được dùng để quật ngược lại Việt Nam mỗi khi đề tài trên được nêu ra.
Giới thẩm quyền Việt Nam ngày hôm nay giải thích sự im lặng của họ vào thời điểm đó bằng cách nói rằng họ đã phải dựa vào viện trợ của Trung Quốc trong cuộc chiến chống Mỹ, vốn là kẻ thù chính yếu của họ lúc đó. Vậy thì một điều chắc chắn là, khi chiến tranh càng được chấm dứt sớm hơn thì quan hệ hữu nghị giữa Hà Nội và Bắc Kinh cũng như vậy .
Cộng thêm vào đó là những điều bị bóp méo mới toanh mà Hà Nội phải dùng đến để tăng thêm giá trị cho lời tuyên bố về chủ quyền của họ trên quần đảo Hoàng Sa. Bởi vì sự im lặng đồng ý ngầm trong quá khứ mà Hà Nội bó buộc phải tránh không dám dùng những lời tuyên bố chính thức của họ từ thập niên 1950 đến thập niên 1970, mà phải dùng những bản tuyên bố của chế độ Sài Gòn – tức là công nhận tính hợp pháp của của chính phủ miền Nam. Một cách rất sớm sủa, như vào năm 1956, chính phủ Sài Gòn đã công bố một thông cáo chính thức xác nhận chủ quyền của mình trên Hoàng Sa và Trường Sa.
Chế độ Sài Gòn cũng công bố một nghị định để bổ nhiệm nhân sự hành chánh cho quần đảo Hoàng Sa. Cho đến khi họ bị thất bại bởi lực lượng quân sự Trung Quốc vào năm 1974 (chỉ vài tháng trước khi miền Nam Việt Nam bị sụp đổ trước sự tấn công của cộng sản từ miền Bắc), thì chính phủ Sài Gòn vẫn tiếp tục tuyên bố chủ quyền của mình trên quần đảo Hoàng Sa.
Trong vài năm vừa qua, nước Nam Dương (Indonesia) đã bảo trợ cho các buổi hội thảo với tính cách phi chính phủ về vùng biển Nam Trung Hoa. Tại các buổi hội thảo lúc có lúc không này, phía Việt Nam một lần nữa lại thấy bối rối khi được yêu cầu giải thích về sự im lặng của họ hồi đó, khi Trung Quốc nắm giữ cái mà Việt Nam bây giờ tuyên bố là một phần của lãnh thổ họ. “Trong thời gian này”, họ nói, “có những tình trạng rắc rối về chính trị và xã hội tại Việt Nam, cũng như trên thế giới, mà phía Trung Quốc đã lợi dụng, theo từng bước một, để dùng biện pháp quân sự chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa. Và Trung Quốc đã thu gọn toàn bộ Hoàng Sa vào năm 1974.”
Với lợi thế của hai thập niên về lịch sử, bây giờ có thể thẩm định được những hành động của chính quyền miền Nam với một nhãn quan công minh hơn. Trong cái phúc lợi của việc hàn gắn vết thương chiến tranh, nếu không phải vì những chuyện khác, có lẽ điều khôn ngoan cho Hà Nội là nên xem xét lại quá khứ và trả lại cho Cesar những gì thuộc về Cesar. Và sự chống đỡ mãnh liệt của chính quyền Sài Gòn để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa, đúng vào cái lúc mà chế độ Hà Nội đang bận rộn ve vuốt để nhận đặc ân từ Trung Quốc, là một hành động xuất sắc nên được công nhận.Hồ Chí Minh đã có một lần được hỏi rằng ông ta ủng hộ Liên Sô hay ủng hộ Trung Quốc Ông ta đã trả lời rằng ông ta ủng hộ Việt Nam. Bây giờ là lúc để chế độ Hà Nội nhìn nhận rằng đã có lúc khi mà chính quyền Sài Gòn đã ủng hộ cho Việt Nam nhiều hơn là chính quyền của miền Bắc.
2) Ðằng sau những tuyên bố về chủ quyền trên hai quần đảo
Những gì đã xảy ra sau khi Hồ Chí Minh được quân đội của Mao Trạch Ðông và các đồng chí giúp nắm giữ quyền lực tại miền Bắc Việt Nam.
Việt Nam tuyên bố chủ quyền trên “quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” dựa trên các tài liệu xưa cũ và đặc biệt là tập bút ký “Phủ Biên Tập Lục” của Lê Quý Ðôn. Việt Nam gọi hai quần đảo này là Hoàng Sa (Paracels) và Trường Sa (Spratlys); Trung Quốc gọi là Tây Sa (Xisha) và Nam Sa (Nansha). Người Việt Nam đã đụng độ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa vào ngày 19/1/1974 với kết qủa là một tàu lớn của Hải quân miền Nam cũ bị đắm và 40 thuỷ thủ bị bắt. Vào tháng 3/1988 nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa lại đến và đánh chìm 3 tàu của Việt Nam, 72 thuỷ thủ bị thiệt mạng và 9 bị bắt. Vào ngày 25/2/1992, nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa tuyên bố quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của họ.
Lý do chính để Trung Quốc làm như thế đã được biết đến trước đây như một phần của kế hoạch gọi là “Không gian sinh tồn”, bởi vì tài nguyên thiên nhiên của hai vùng Mãn Châu và Tân Cương sẽ bị cạn kiệt sớm. Ðể làm điều này, Trung Quốc bắt đầu bằng phần dễ nhất – là cái mà cộng sản Việt Nam đã hứa trước đây. Có nghĩa là Trung Quốc căn cứ vào một sự thương lượng bí mật trong qúa khứ. Trong một bản tin của hãng thông tấn Reuters ngày 30/12/1993, thì cộng sản Việt Nam đã bác bỏ sự thương lượng bí mật này nhưng không đưa ra bất cứ lời giải thích nào. Lê Ðức Anh đi thăm Trung Quốc và làm chậm trễ vụ tranh chấp này đến 50 năm. Có phải là Trung Quốc có thái độ vì sự vô ơn và những hứa hẹn trong quá khứ của Lê Ðức Anh?3) Cộng Sản Việt Nam bán Quần Đảo Hoàng sa và Trường sa, nhưng bây giờ muốn nói không.Theo tài liệu “Chủ quyền tuyệt đối của Trung Quốc trên quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa” của Bộ Ngoại giao Trung Quốc (Beijing Review, 18/2/1980), thì Hà Nội đã “dàn xếp” vấn đề này trong quá khứ. Đại khái họ đã bảo rằng:
- Hồi tháng 6 năm 1956, hai năm sau ngày chính phủ của ông Hồ Chí Minh đã được tái lập tại Hà Nội, Thứ trưởng Ngoại giao Bắc Việt Ung Văn Khiêm nói với Li Zhimin, Xử lý Thường vụ Toà Đại Sứ Trung quốc tại Bắc Việt, rằng “theo những dữ kiện của Việt nam, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là môt bô phận lịch sử của lãnh thổ Trung quốc”.
- Ngày 4 tháng 9 năm 1958, chính phủ Trung Quốc đã tuyên bố bề rộng của lãnh hải Trung Quốc là mười hai hải lý, được áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, “bao gồm … Quần Đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa …”. Mười ngày sau đó, Phạm Văn Đồng đã ghi rõ trong bản công hàm gởi cho Chu An Lai, rằng “Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa về vấn đề lãnh hải”.
Ðây là của văn bản của nhà nước Việt Nam do Phạm Văn Ðồng ký gởi cho Chu Ân Lai vào ngày 14/9/1958 để ủng hộ cho lời tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc như theo sau:
Thưa Đồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ:Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố , ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa trên mặt bể.Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.
Hà-nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958
PHẠM VĂN ĐỒNG
Thủ tướng Chính Phủ
Nước Việt-nam Dân chủ Cộng Hòa
Thêm một điều cần ghi nhận là Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (PRC) đã chỉ đe dọa những lãnh thổ mà Việt Nam đã tuyên bố là của mình, và để yên cho các nước khác. Rõ ràng là ông Hồ Chí Minh qua Phạm Văn Đồng, đã tặng cho Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa “một cái bánh bao lớn” bởi vì lúc đó ông Hồ Chí Minh đang chuẩn bị cho công cuộc xâm lăng miền Nam Việt Nam. Ông Hồ cần sự viện trợ khổng lồ và đã nhắm mắt để nhận tất cả những điều kiện của Bắc Kinh. Đối với ông ta, việc bán “trên giấy tờ” hai quần đảo lúc đó vẫn thuộc về miền Nam Việt Nam là một điều dễ dàng.Vì sự việc này mà Cộng sản Việt Nam đã chờ một buổi họp của các quốc gia khối ASEAN tại Manila, để dùng cơ hội này như một cái phao an toàn và ký ngay một văn kiện đòi hỏi những quốc gia này giúp Việt Nam giải quyết vấn đề “một cách công bình”
Về phía Trung Quốc, sau khi đã lấy được những đảo của Cộng sản Việt Nam, họ đã tỏ thái độ ôn hòa đối với Mã Lai Á và Phi Luật Tân, và bảo rằng Trung Quốc sẵn sàng thương lượng các khu vực tài nguyên với các quốc gia này, và gạt Việt Nam qua một bên. Trung Quốc đã nói họ sẽ không tán thành bất cứ quốc gia nào can thiệp vào vấn đề giữa họ và Cộng sản Việt Nam.Sau đó, Phạm Văn Đồng đã chối bỏ việc làm sai lầm của ông ta trong quá khứ, trong một ấn bản của Tạp chí Kinh tế Viễn Đông ngày 16/3/1979. Đại khái, ông ấy nói lý do mà ông ấy đã làm bởi vì lúc đó là “thời kỳ chiến tranh”. Đây là một đoạn văn trích từ bài báo này ở trang số 11:
“Theo ông Li (Phó Thủ tướng Trung quốc Li Xiannian), Trung quốc đã sẵn sàng chia chác vùng vịnh “mỗi bên một nửa” với Việt Nam, nhưng trên bàn thương lượng, Hà Nội đã vẽ đường kiểm soát của Việt Nam đến gần Đảo Hải Nam. Ông Li cũng đã nói rằng vào năm 1956 (hay 1958 ?), Thủ tướng Việt Nam Phạm văn Đồng đã ủng hộ một bản tuyên bố của Trung Quốc về chủ quyền của họ trên Quần Đảo Trường Sa Và Hoàng Sa, nhưng từ cuối năm 1975, Việt Nam đã kiểm soát một phần của nhóm đảo Trường Sa – nhóm đảo Hoàng Sa thì đã nằm dưới sự kiểm soát bởi Trung Quốc. Năm 1977, theo lời tường thuật thì ông Đồng đã biện hộ cho lập trường của ông ấy hồi năm 1956: “Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đã phải nói như vậy”.
”Vì hăng hái muốn tạo ra một cuộc chiến thê thảm cho cả hai miền Nam Bắc, và góp phần vào phong trào quốc tế cộng sản, ông Hồ Chí Minh đã hứa, mà không có sự tự trọng, một phần đất “tương lai” để cho Trung Quốc nắm lấy, mà không biết chắc chắn là có thể nào sẽ nuốt được miền Nam Việt Nam hay không.
Như ông Đồng đã nói, “Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đã phải nói như vậy”. Vậy thì ai đã tạo ra cuộc chiến Việt Nam và sẵn sàng làm tất cả mọi sự có thể làm được để chiếm miền Nam, ngay cả việc bán đất ? Bán đất trong thời chiến và khi cuộc chiến đã chấm dứt, Phạm Văn Đồng lại chối bỏ điều đó bằng cách bịa đặt ra việc đổ thừa cho chiến tranh.
4) Trong cuốn “Vấn đề tranh chấp lãnh thổ Hoa -Việt” của Pao-min-Chang thuộc tủ sách The Washington Papers, do Douglas Pike viết lời nói đầu, được Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và Quốc tế thuộc Ðại học Georgetown , Washington D.C. xuất bản
Ngoài cái khoảng cách về địa lý, cả hai nhóm quần đảo này nằm ngoài phía bờ biển của miền Nam Việt Nam và vẫn dưới sự quản lý hành chánh của chế độ Sài Gòn vốn không thân thiện gì. Hà Nội đơn giản là không ở trong cái tư thế để đặt vấn đề với cả Trung Quốc lẫn sức mạnh của hải quân Mỹ cùng một lúc. Do đó, vào ngày 15/6/1956, Thủ tướng Phạm Văn Ðồng đã nóì với phía Trung Quốc: “Từ quan điểm của lịch sử, thì những quần đảo này thuộc về lãnh thổ Trung Quốc” (Beijing Review 30/3/1979, trang 20 – Cũng trong báo Far East Economic Review 16/3/1979, trang 11).
Hồi tháng 9 năm 1958, khi Trung Quốc, trong bản tuyên bố của họ về việc gia tăng bề rộng của lãnh hải của họ đến 12 hải lý, đã xác định rằng quyết định đó áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của Trung Quốc, bao gồm cả Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, một lần nữa Hà Nội đã lên tiếng nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc trên 2 quần đảo đó. Ông Phạm Văn Đồng đã ghi nhận trong bản công hàm gởi cho lãnh tụ Trung Quốc Chu An Lai ngày 14/9/1958: “Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc” (xem Beijing Review 19/6/1958, trang 21 — Beijing Review 25/8/1979, trang 25 — Sự tồn tại của bản công hàm đó và tất cả nội dung đã được xác nhận tại Việt Nam trong BBC/FE, số 6189, ngày 9/8/1979, trang số 1.)
5) Tại sao ?
Theo ông Carlyle A Thayer, tác giả bài “Sự tái điều chỉnh chiến lược của Việt Nam” trong bộ tài liệu “Trung Quốc như một Sức mạnh Vĩ đại trong vùng Á châu Thái Bình Dương” của Stuart Harris và Gary Klintworth [Melbourne: Longman Cheshire Pty Ltd., forthcoming 1994] :
Phía Việt Nam, trong khi theo đuổi quyền lợi quốc gia, đã thực hiện nhiều hành động mà theo quan điểm của Trung Quốc thì có vẻ khiêu khích cao độ. Thí dụ như, trong công cuộc đấu tranh trường kỳ dành độc lập, Việt Nam đã không biểu lộ sự chống đối công khai nào khi Trung Quốc tuyên bố chủ quyền của họ trên biển Nam Trung Hoa và đúng ra lại tán thành họ. Nhưng sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam đã đổi ngược lập trường. Năm 1975, Việt Nam đã chiếm đóng một số hải đảo trong quần đảo Trường Sa và sau đó đã tiến hành việc tuyên bố chủ quyền lãnh thổ trên toàn bộ biển Nam Trung Hoa.
Như Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm đã thú nhận:
“Các nhà lãnh đạo của chúng tôi đã có tuyên bố lúc trước về Hoàng Sa và Trường Sa dựa trên tinh thần sau: Lúc đó, theo Hiệp định Geneve 1954 về Đông Dương, các lãnh thổ từ vĩ tuyến 17 về phía nam, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là đặt dưới sự kiểm soát của chính quyền miền Nam. Hơn nữa, Việt Nam đã phải tập trung tất cả các lực lượng quân sự cho mục tiêu cao nhất để chống lại cuộc chiến tranh hung hãn của Mỹ, nhằm bảo vệ nền độc lập quốc gia. Việt Nam đã phải kêu gọi sự ủng hộ của bè bạn trên toàn thế giới. Đồng thời, tình hữu nghị Hoa-Việt rất thân cận và hai nước tin tưởng lẫn nhau. Trung Quốc đã cho Việt Nam một sự ủng hộ rất vĩ đại và giúp đỡ vô giá. Trong tinh thần đó và bắt nguồn từ những đòi hỏi khẩn cấp nêu trên, tuyên bố của các nhà lãnh đạo của chúng tôi [ủng hộ Trung Quốc trong việc tuyên bố chủ quyền của họ trên Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa] là cần thiết vì nó trực tiếp phục vụ cho cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và tự do cho tổ quốc.
”Đặc biệt thêm nữa là cái tuyên bố đó để nhắm vào việc đạt yêu cầu cho những nhu cầu cấp thiết vào lúc bấy giờ để ngăn ngừa bọn tư bản Mỹ dùng những hải đảo này để tấn công chúng tôi. Nó không có dính dáng gì đến nền tảng lịch sử và pháp lý trong chủ quyền của Việt Nam về hai quần đảo Hoàng Sa Và Trường Sa” (Tuyên bố trong một buổi họp báo tại Hà Nội ngày 2/12/1992, được loan tải bởi Thông Tấn Xã Việt Nam ngày 3/12/1992)
Những ghi nhận này cho thấy rằng tất cả những điều mà Trung Quốc đã tố cáo phía trên là sự thật. Những gì xảy ra ngày hôm nay mà có liên hệ đến hai quần đảo này chỉ là những hậu quả của sự dàn xếp mờ ám của hai người cộng sản anh em trong qúa khứ. Không một ai trong cộng đồng thế giới muốn bước vào để dàn xếp sự bất đồng giữa Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc. Lý do rất rõ ràng: cái công hàm ngoại giao và sự nhìn nhận của Cộng sản Việt Nam không thể nào xoá bỏ được bởi một nước nhỏ như Việt Nam, kẻ đã muốn chơi đểu để lừa dối Trung Quốc. Hơn nữa, Cộng sản Việt Nam không thể nào tránh được Trung Quốc trong khi họ phải bắt chước theo chính sách “đổi mới” của Trung Quốc để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Lược dịch từ: Paracels Islands Dispute by Frank Ching (Far Eastern Economic Review, Feb. 10, 1994)
——————————————————
Palawan Sun: Bắc Việt Nam ủng hộ Tuyên bố 1958 của Trung Quốc
When in 1957 China protested Vietnam’s move in Robert Island, Saigon was already in control also of two other islands of the Crescent Group: Pattle and Money Islands. The three South Vietnamese held islands are on the western side of the Crescent Group. Then in August 1958 Saigon took over Duncan Island in the eastern sector of the Crescent, thus facing the Amphitrite Group. Two weeks later the PRC government declared its sovereignty over the whole of the Paracels. They were supported by North Vietnam.
—————————————————————————
Vào năm 1957 khi Trung quốc phản đối sự chiếm đóng của Việt Nam tại đảo Robert, thì chính quyền Sài Gòn đã hoàn toàn kiểm soát hai đảo khác trong nhóm Crescent: đảo Pattle và đảo Money. Ba (3) đảo mà (chính quyền) Nam Việt Nam chiếm giữ nằm bên phía tây của nhóm Crescent. Rồi đến tháng 8 năm 1958, (chính quyền) Saigon lại chiếm giữ thêm đảo Duncan nằm bên khu vực phía đông của nhóm đảo Crescent, đối diện với nhóm Amphitrite. Hai tuần sau đó, chính phủ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tuyên bố chủ quyền của họ trên toàn bộ Quần đảo Hoàng Sa. Họ đã được ủng hộ bởi (chính phủ) Bắc Việt Nam.
Trích và lược dịch từ A History of Three Warnings By Dr. Jose Antonio Socratesvà Palawan Sun Online
—————————————————–
Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà (1974)
Nhiệm vụ cao cả và cần thiết của một chính phủ là bảo vệ chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà cương quyết thi hành nhiệm vụ này, bất kể những khó khăn có thể sẽ gặp phải và bất kể những cáo buộc vô căn cứ có thể sẽ đến bất cứ từ đâu.
Trước sự chiếm đóng bất hợp pháp của Trung Cộng bằng quân sự trên Quần đảo Hoàng Sa, nguyên là một phần đất thuộc lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà, Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà xét thấy cần thiết phải long trọng tuyên bố trước công luận thế giới, bạn cũng như thù, rằng:
Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa là một phần không thể cắt rời của lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Chính phủ và toàn dân Việt Nam Cộng Hòa sẽ không khuất phục trước bạo lực và bác bỏ tất cả hoặc một phần chủ quyền của họ trên những quần đảo này.
Chừng nào mà bất cứ một hòn đảo nào của phần lãnh thổ đó của Việt Nam Cộng Hòa vẫn bị một nước khác chiếm đóng bằng bạo lực, thì Chính phủ và toàn dân Việt Nam Cộng Hòa sẽ tiếp tục tranh đấu để lấy lại quyền lợi hợp pháp của mình.
Kẻ chiếm đóng bất hợp pháp sẽ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về bất cứ tình trạng căng thẳng nào bắt nguồn từ đó.
Nhân cơ hội này, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cũng long trọng tái xác nhận chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa trên các hải đảo ngoài khơi miền Trung và Nam phần Việt Nam, đã luôn luôn được chấp nhận như một phần lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa trên căn bản không thể chối cãi được về địa lý, lịch sử, chứng cứ hợp pháp và bởi vì những điều thực tế.
Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cương quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia trên những quần đảo này bằng tất cả mọi phương tiện. Ðể gìn giữ truyền thống tôn trọng hoà bình, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa sẵn sàng giải quyết, bằng sự thương lượng, về các tranh chấp quốc tế có thể bắt nguồn từ các quần đảo đó, nhưng điều đó không có nghĩa là Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa sẽ từ bỏ chủ quyền của mình trên bất cứ phần lãnh thổ nào của quốc gia.
Tuyên bố bởi Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa vào ngày 14 tháng 2 năm 1974
Trích và lược dịch từ nguồn:
Paracels Forum – The Discussion Proceeds For Peace
——————————————————–
Tuyên bố của Bộ Ngoại giao nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam về Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa (1979)
Vào ngày 30/7/1979, Trung Quốc đã công khai công bố tại Bắc Kinh một số tài liệu với ý định để minh chứng cho việc tuyên bố chủ quyền của họ trên quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Về vấn đề này, Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam tuyên bố:
1. Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa là một phần của lãnh thổ Việt Nam. Các Sứ quân Việt Nam đã là những người đầu tiên trong lịch sử đến chiếm đóng, tổ chức, kiểm soát và khai phá các quần đảo này trong chức năng của họ như là các lãnh chúa. Quyền sở hữu này có hiệu quả và phù hợp với luật pháp quốc tế. Chúng tôi có đầy đủ các tài liệu lịch sử và luật pháp để chứng minh chủ quyền tuyệt đối trên hai quần đảo này.
2. Sự diễn giải của Trung quốc về văn bản ngày 14 tháng 9 năm 1958 của Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà như một sự công nhận chủ quyền của phiá Trung quốc trên các quần đảo là một sự xuyên tạc trắng trợn khi tinh thần và ý nghĩa của bản văn chỉ có ý định công nhận giới hạn 12 hải lý của lãnh hải Trung quốc.
3. Năm 1965, Hoa Kỳ gia tăng cuộc chiến tranh xâm lược tại miền Nam Việt Nam và phát động một cuộc chiến huỷ diệt bằng không quân và hải quân chống lại miền Bắc Việt Nam. Họ đã tuyên bố rằng khu vực chiến trường của quân đội Hoa Kỳ bao gồm Việt Nam và vùng lân cận của khu vực khoảng 100 hải lý tính từ bờ biển Việt Nam. Vào lúc đó, trong cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước, nhân dân Việt Nam đã phải chiến đấu trong mọi tình huống để bảo vệ chủ quyền đất nước. Thêm nữa, Việt Nam và Trung Quốc lúc đó vẫn duy trì quan hệ hữu nghị. Bản tuyên bố ngày 9/5/1965 của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đưa ra lý do để tồn tại chỉ với quá trình lịch sử này.
4. Từ năm 1972, theo sau Bản Thông cáo chung Thượng Hải, những kẻ cai trị Trung Quốc đã âm mưu với bọn hiếu chiến Mỹ để phản bội nhân dân Việt Nam, gây ra biết bao nhiêu trở ngại cho cuộc chiến tranh tự vệ của Việt Nam. Ðầu Tháng Giêng 1974, chỉ trước khi nhân dân Việt Nam toàn thắng vào mùa Xuân 1975, Trung Quốc đã chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp quân sự, lúc đó vẫn dưới sự quản lý của chính quyền Sài Gòn.
Việt Nam Cộng Hòa lúc đó đã tuyên bố rõ ràng cương vị của họ như sau đây:
- Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là những câu hỏi thiêng liêng cho tất cả mọi quốc gia.
- Những khó khăn về biên giới lãnh thổ, thường tồn tại trong các cuộc tranh chấp giữa các nước láng giềng do lịch sử để lại, có thể vô cùng rắc rối và nên được nghiên cứu kỹ càng.
- Các quốc gia quan tâm nên cứu xét vấn đề này trong tinh thần công bằng, tôn trọng lẫn nhau, hòa nhã, láng giềng tốt và giải quyết vấn đề bằng sự thương lượng.
5. Tại các cuộc thảo luận tổ chức vào ngày 24/9/1975 với phái đoàn Ðảng và Nhà nước Việt Nam trong chuyến thăm viếng Trung Quốc, Phó Thủ tướng Ðặng Tiểu Bình đã thú nhận rằng có sự tranh chấp giữa hai bên về vấn đề quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và hai bên sau đó nên bàn thảo với nhau để giải quyết vấn đề
6. Chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa một cách bất hợp pháp bằng quân sự, Trung Quốc đã xâm phạm vào sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và dẫm chân lên làm cản trở tinh thần của Hiến chương Liên Hiệp Quốc kêu gọi giải quyết tất cả các tranh chấp bằng thương lượng hoà bình. Sau khi phát động một cuộc chiến xâm lược Việt Nam với tầm vóc to lớn, phía Trung Quốc lại nêu ra vấn đề quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, trong khi tạo ra một tình trạng càng ngày càng căng thẳng dọc theo biên giới Việt Nam và từ chối việc thảo luận những giải pháp cấp thiết để bảo đảm hoà bình và ổn định trong khu vực biên giới giữa hai nước. Ðiều rõ ràng là những kẻ cai trị Trung Quốc vẫn không từ bỏ ý định tấn công Việt Nam một lần nữa. Hành động của họ là một sự đe doạ nghiêm trọng cho hoà bình và ổn định trong vùng Ðông Nam Á và làm lộ rõ hơn tham vọng bành trướng, với bản chất bá quyền hiếu chiến của một nước lớn, bộ mặt xảo trá lật lọng và phản bội của họ.
Hà Nội, ngày 7 tháng 8 năm 1979
Trích và lược dịch từ nguồn:
Paracels Forum – The Discussion Proceeds For Peace
——————————————————
Bộ Ngoại giao Trung Quốc diễn giải về Công Hàm Bán Nước
International Recognition Of China’s Sovereignty over the Nansha Islands
5. Viet Nam
a) Vice Foreign Minister Dong Van Khiem of the Democratic Republic of Viet Nam received Mr. Li Zhimin, charge d’affaires ad interim of the Chinese Embassy in Viet Nam and told him that “according to Vietnamese data, the Xisha and Nansha Islands are historically part of Chinese territory.” Mr. Le Doc, Acting Director of the Asian Department of the Vietnamese Foreign Ministry, who was present then, added that “judging from history, these islands were already part of China at the time of the Song Dynasty.”
b) Nhan Dan of Viet Nam reported in great detail on September 6, 1958 the Chinese Government’s Declaration of September 4, 1958 that the breadth of the territorial sea of the People’s Republic of China should be 12 nautical miles and that this provision should apply to all territories of the People’s Republic of China, including all islands on the South China Sea. On September 14 the same year, Premier Pham Van Dong of the Vietnamese Government solemnly stated in his note to Premier Zhou Enlai that Viet Nam “recognizes and supports the Declaration of the Government of the People’s Republic of China on China’s territorial sea.”
c) It is stated in the lesson The People’s Republic of China of a standard Vietnamese school textbook on geography published in 1974 that the islands from the Nansha and Xisha Islands to Hainan Island and Taiwan constitute a great wall for the defense of the mainland of China
——————————————————————————–
Sự công nhận của thế giới về chủ quyền của Trung Quốc trên Quần đảo Trường Sa
5. Việt Nam
a) Thứ trưởng ngoại giao Ðồng văn Khiêm của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa khi tiếp ông Li Zhimin, xử lý thường vụ Toà Ðại Sứ Trung quốc tại Việt Nam đã nói rằng “theo những dữ kiện của Việt nam, hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa là môt bô phận lịch sử của lãnh thổ Trung quốc”. Ông Le Doc, quyền Vụ trưởng Á châu Sự vụ thuộc Bộ Ngoại giao Việt nam, cũng có mặt lúc đó, đã nói thêm rằng “xét về mặt lịch sử thì các quần đảo này đã hoàn toàn thuộc về Trung quốc từ thời nhà Tống”
b) Báo Nhân Dân của Việt Nam đã tường thuật rất chi tiết trong số xuất bản ngày 6/9/1958 về Bản Tuyên Bố ngày 4/9/1958 của Nhà nước Trung quốc, rằng kích thước lãnh hải của nước Cộng Hoà Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý và điều này được áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của phía Trung quốc, bao gồm tất cả các quần đảo trên biển Nam Trung Hoa. Ngày 14/9 cùng năm đó, Thủ tướng Phạm Văn Ðồng của phía nhà nước Việt Nam, trong bản công hàm gởi cho Thủ tướng Chu An Lai, đã thành khẩn tuyên bố rằng Việt Nam “nhìn nhận và ủng hộ Bản Tuyên Bố của Nhà nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa trong vấn đề lãnh hải”
c) Bài học về nước CHND Trung Hoa trong giáo trình cơ bản của môn địa lý của Việt Nam xuất bản năm 1974, đã ghi nhận rằng các quần đảo từ Trường Sa và Hoàng Sa đến đảo Hải Nam và Ðài Loan hình thành một bức tường phòng thủ vĩ đại cho lục địa Trung Hoa .
Trích và lược dịch từ trang nhà của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc
——————————————————
Phụ bản IV
Ðơn xin học nội trú trường Thuộc Ðịa
của Nguyễn Tất Thành tức Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh đã viết sách ca tụng chính mình bằng giọng điệu 'Lúc ấy (khi còn trẻ) bác không thèm vào trường Quốc Học (ở Huế), vì trường ấy chỉ đào tạo quan làm nô lệ cho Pháp thôi". Tài liệu Ðơn xin học nội trú trường Thuộc Ðịa chứng minh Hồ Chí Minh gian xảo và thực sự đã hết lòng muốn làm 'nô lệ cho Pháp' mà không được. Xin trích một câu trong đơn xin học nội trú để làm bằng chứng:
‘Je désirerais devenir utile à la France vis à vis de mes compatriotes et pouvoir en même temps les faire profiter des bienfaits de l' instruction.’
‘Tôi mong ước trở nên hữu ích cho nước Pháp đối với đồng bào tôi, đồng thời có thể làm cho họ
hưởng được lợi ích giáo hóa.’
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Sau đây là bản dịch đơn của Nguyễn tất Thành tức Hồ chí Minh
Marseille le15 Septembre 1911
À Monsieur le Ministre des Colonies
Monsieur le Ministre
J'ai l'honneur de solliciter de votre bienveillance la faveur d'être admis à suivre les cours de l ' École Coloniale comme interne.
Je suis actuellement employé à la Compagnie des Chargeurs Réunis pour ma substance à soi de l'Amiral Latouche Tréville.
Je suis entièrement dénué de ressources et avide de m' instruire . Je désirerais devenir utile à la France vis à vis de mes compatriotes et pouvoir en même temps les faire profiter des bienfaits de l' instruction.
Je suis originaire de la province de Nghê-an, en Annam.
En attendant votre réponse que j ' espère favorable, agréez, Monsieur le Ministre , mes plus respectueuses hommages et l ' assurance de ma reconnaissance anticipée.
Nguyễn-tất Thành,
né à Vinh, en 1892 ,fils de Mr Nguyễn sinh Huy, sous docteur es-lettre
Étudiant Francais , quốc ngữ, caractère chinois
------------------------------------------------------------------------------------------------------------Tạm dịch :
Marseille ngày 15 tháng chín 1911
Kính gởi ông Bộ Trưởng bộ Thuộc Ðịa
Kính thưa ông Bộ Trưởng,
Tôi xin trân trọng thỉnh nguyện lòng tốt của ông ban đặc ân cho tôi được nhận vào nội trú trường Thuộc địa.
Tôi hiện làm công nhân trong công ty Chargeurs Réunis để mưu sinh ( trên tàu Amiral Latouche-Tréville).
Tôi hoàn toàn không có tài sản và khao khát được học hỏi. Tôi mong ước trở nên hữu ích cho nước Pháp đối với đồng bào tôi, đồng thời có thể làm cho họ hưởng được lợi ích giáo hóa.
Tôi gốc tỉnh Nghệ An, xứ An Nam.
Trong lúc chờ đợi sự trả lời mà tôi hy vọng là thuận lợi, xin ông Bộ Trưởng nhận nơi đây lòng tôn kính và tri ân trước của tôi.
Nguyễn Tất Thành, sinh tại Vinh năm 1892 , con của ông Nguyễn sinh Huy, Phó Bảng. Học sinh pháp văn, quốc ngữ, chữ hán
(Trích từ Diễn đàn Dân Chủ)
Phụ bản V
Công Ty Du Lịch Tàu cộng Quảng Cáo
Thác Bản Giốc Nằm Trong Biên Giới Tàu cộng.
Nghiên cứu lịch sử Thác Bản Giốc - Trương Nhân Tuấn
-------------------------------------||----------------------------------------
Phần thác nằm bên Việt Nam || Phần thác nằm bên Tàu cộng
Phần thác Bản Giốc nằm bên phía Tàu Cộng
Phần thác Bản Giốc Nằm bên phía Việt Nam
Bản đồ Thác Bản Giốc hướng dẫn du lịch của công ty du lịch Tàu cộng
Tài liệu năm 1887 do nhà nghiên cứu Trương Nhân Tuấn tìm thấy
trong văn khố của Pháp ghi rất rõ thác Bản Giốc nằm
2km sâu bên trong nội địa Việt Nam
Nay công ty du lịch Tàu quảng cáo đi du lịch phân nữa bên thác Bản Giốc nằm bên biên giới Trung cộng, vậy các tay lãnh đạo cộng sản giải thích như thế nào về hành động bán đất dâng biển cho Tàu cộng đây?
Trang web của công ty du lịch Tàu cộng giới thiệu về thác Bản Giốc:
http://travel.sz.net.cn/travel/2005-07/20/content_125556.htm
Daxin County is under the jurisdiction of Nanning City, Guangxi Zhuang Autonomous Region, and shares over 40 kilometers of its southern border with Vietnam. Formerly an undeveloped area, it is famous for its Detian Scenic Zone, which boasts a variety of fantastic landscapes.
Along with the enhancement of friendly ties between China and Vietnam, the Detian Scenic Zone was established several years ago, and was so named for its spectacular Detian Waterfall.
The Detian Waterfall is over 200 meters wide and has a drop of more than 70 meters. Its water rushes down a three-tiered cliff with tremendous force. It is the largest waterfall in Asia, and the second largest transnational waterfall in the world, connecting with a waterfall in Vietnam. The fall is awe-inspiring, and its thunder is audible before it even comes into view.
The changing seasons transform the natural scenery of the waterfall throughout the year. In spring, the flame-red blossoms of the kapok trees that surround the fall are in full bloom, symbolizing success. Throughout the autumn months, though, the area around the waterfall turns golden-yellow, creating a harvest scene. In the summer, visitors feel a complete freedom of mind and ease of spirit as they see the waters of the fall cascade with the momentum force of an avalanche. During winter, on the other hand, the fall's clear water drops slowly, making visitors feel even-tempered and good-humored. The Detian Waterfall appears to be a sculpture made by nature.
Fifty-three kilometers away from the county seat of Daxin is the Mingshi Tourist Attraction, a state-level scenic spot known as the Lesser Guilin. The Mingshi River winds its way through green hills and flat land, and its banks are dotted with groves of bamboo. The tranquil waters of the river, along with the green hills, terraced fields, and farmers' houses around the Mingshi Bridge, form a beautiful countryside scene.
The Heishui (Black Water) River Tourist Attraction is another state-level scenic spot that is 33 kilometers away from the county seat of Daxin. It is located in a 45.5-kilometer section of the river between Shatundie Waterfall in Shuolong Township and the Leipingnaan Hydropower Station. By the river, there are a number of trees and odd-shaped pinnacles, whose inverted reflection in the river's blue water is the color black, hence the name of the river. With pinnacles, groves of bamboo and longan trees, and farmers' houses, this section of the river looks like an elegant Chinese ink and wash painting throughout the seasons.
Shatundie Waterfall, also known as Niandi Waterfall, is 55 kilometers away from the county seat of Daxin. The fall has seven tiers; and if you view it from afar, it looks like a flight of steps made of water. Compared with the Detian Waterfall, it is moderate and calm.
Visitors from other parts of the country can travel by air, train, or long-distance bus to Nanning, the capital city of the Guangxi Zhuang Autonomous Region. From Nanning, they can take scheduled buses, dispatched every 20 minutes, to the county seat of Daxin. There are tourist buses to every scenic spot in the county.
No comments:
Post a Comment