BÀI SỐ BA
NGHỊ QUYẾT 36 VÀ ÐỀ NGHỊ HÒA HỢP HÒA GIẢI
ÐỖ THÁI NHIÊN
Từ 30/4/1975 đến cuối thập niên 1980, CSVN gay gắt gọi người Việt hải ngoại là “những kẻ phản quốc”. Suốt thập niên 1990, số ngoại tệ do người Việt hải ngoại gửi về cho thân nhân tại Việt Nam trở thành một loại ngoại viện quan trọng, CSVN “ân cần” gọi người Việt hải ngoại là “khúc ruột ngàn dặm”. Bước qua đầu thập niên 2000, bên cạnh số ngoại tệ khổng lồ gửi về quốc nội, uy thế ngoại giao của người Việt hải ngoại ngày càng lớn mạnh rõ rệt. Ðối diện với thực tế hiển nhiên kia, thông qua nghị quyết 36, CSVN kính cẩn xác nhận: “Ðảng và nhà nước ta luôn luôn coi cộng đồng Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam”. Kế đến nghị quyết 36 mạnh mẽ kêu gọi tất cả người Việt hãy: “Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng,thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai.” Lời kêu gọi vừa kể đã cho chúng ta thấy: đây là lần đầu tiên trong lịch sử của đảng CSVN, bộ chính trị đảng đã chính thức công khai và long trọng đưa ra lời kêu gọi hòa hợp hòa giải với cộng đồng Việt Nam hải ngoại nói riêng và với quần chúng VN nói chung. Bản chất của đề nghị hòa hợp hòa giải là một khế ước xã hội,goi tắt là xã ước. Bằng vào xã ước này, theo đề nghị củaCSVN, quần chúng VN và CSVN cùng cam kết hai điều:một là quên đi quá khứ, hai là cùng nhau hướng về tương lai. Muốn biết khế ước hòa hợp hòa giải có thể thực hiện được hay không, chúng ta hãy khảo sát các chuẩn mực cần thiết của việc kết ước. Các chuẩn mực đó như sau:
Chuẩn mực 1: Tư cách ký kết khế ước.
Khế ước hòa hợp hòa giải gồm hai đồng ước. Bên này là quần chúng Việt Nam. Bên kia là chế độ CSVN. Ðể có tư cách đứng ra kết ước với quần chúng, chế độ CSVN phải là chế độ chính thống. Tính chất chính thống của chế độ chính trị đòi hỏi chế độ đó phải thực sự do dân chúng bầu ra. Không cần lý luận dông dài, mọi người đều biết căn bản pháp lý của chế độ CSVN là những cuộc bầu cử giả tạo, bầu cử phi pháp. bầu cử theo kiểu đảng độc quyền chỉ định ứng cử viên, công an khắc nghiệt kềm kẹp, người dân câm lặng bầu cử. Vì vậy không có sự chối cãi rằng chế độ CSVN là một chế độ phi chính thống, nó hoàn toàn không có năng cách pháp lý để kết ước với người dân bất kỳ loại khế ước nào, đặc biệt là khế ước hòa hợp hòa giải.
Chuẩn mực 2: Tự do ưng thuận ký kết khế ước.
Giá trị pháp lý của khế ước đòi hỏi mọi đồng ước phải hoàn toàn tự do trong chọn lựa: ký kết hay không ky ùkết khế ước. Tự do ký kết có nghĩa là sự ký kết không diễn ra dưới áp lực của họng súng. Tự do ký kết còn có nghĩa là những thành viên tham dự việc kết ước phải được cung cấp đầy đủ những thông tin cần thiết về tình hình kinh tế, chính trị và văn hóa của quốc gia và quốc tế.
Ðoạn 6 phần III, nghị quyết 36 viết: Ðảng CSVN sẽ “đầu tư cho các chương trình dành cho người VN ở nước ngoài, của đài phát thanh, truyền hình và internet...Hỗ trợ việc ra báo viết, mở đài phát thanh, truyền hình ở nước ngoài... Hỗ trợ kinh phí vận chuyển và đơn giản hóa thủ tục đối với việc gửi sách báo, văn hóa phẩm ra ngoài phục vụ cộng đồng.”
Ðoạn văn vừa trích dẫn ở trên đã một lần nữa khẳng định rằng giao lưu truyền thông đối với CS chỉ có nghĩa là truyền thông Cộng Sản được tự do xuất khẩu. Ngược lại truyền thông tự do dân chủ bị cấm chỉ nhập khẩu. Tự do thông tin bao giờ cũng là người khách cực kỳ xa lạ dưới chế độ CS. Triệt tiêu quyền tự do thông tin, CSVN mặc nhiên trịêt tiêu cả quyền tự do tư tưởng lẫn quyền tự do ký kết khế ước. CSVN vừa ngọt ngào đề xướng khế ước hòa hợp hòa giải, vừa cứng rắn hủy diệt quyền tự do ưng thuận kết ước của người dân. Vì vậy khế ước hòa hợp hòa giải rõ ràng là đề nghị chính trị của những kẻ mang tâm thần bất bình thường do tham quyền cố vị thái quá
Chuẩn mực 3: Khế ước là tín dụng.
Muốn cho khế ước thành tựu, tất cả các bên ký kết khế ước đều phải tin cậy lẫn nhau. Khế ước là tín dụng. Lòng không thể tin cậy lẫn nhau nếu trí không thể hiểu biết lẫn nhau. Khế ước mua bán bất động sản đòi hỏi người mua phải trình bày chi tiết và minh bạch lịch sử tín dụng của người mua. Ngược lại người bán phải báo cho người mua rõ toàn bộ tình trạng pháp lý cùng với những ưu khuyết điểm của bất động sản, đối tượng của dịch vụ mua bán. Nhận biết lòng tin và sự hiểu biết là hai sự kiện không thể thiếu được trong khế ước hòa hợp hòa giải, nghị quyết 36 xác định quyết tâm: “Xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau.” Cội nguồn của thông cảm lẫn nhau là hiểu biết sâu sắc về nhau. Nương vào guồng máy công an đồ xộ, đảng CSVN hiểu biết vững vàng lý lịch ba đời của mỗi cá nhân công dân. Ngược lại quần chúng VN đã có những hiểu biết gì về đảng CSVN? Ai là người chịu trách nhiệm về vụ án cải cách ruộng đất tại miền Bắc năm 1955? Sau 30/4/75 những đảng viên CS nào đã tẩu tán khối tài sản khổng lồ của chế độ VNCH? Những phần lãnh thổ nào đã bị hiến dâng cho ngoại bang? Tại sao CSVN lại phải giấu kín hiệp ước biên giới Việt Hoa? Số tiền trên dưới 3 tỷ Mỹ kim do người Việt hải ngoại gửi về nước hàng năm đã chạy lòng vòng như thế nào trong guồng máy tham ô của CSVN? Tất cả các câu hỏi vừa nêu cùng với vô số những câu hỏi tương tự đều bị đảng CSVN từ chối trả lời với lý do “bí mật quốc gia”. Người nào xì sầm to nhỏ về bí mật quốc gia, người đó sẽ bị xem là can phạm của tội gián địêp.
Trong diễn trình thuyết phục quần chúng chấp nhận khế ước hòa hợp hòa giải, người VN thường xuyên bị nhà cầm quyền CS bưng mắt bịt tai trước tội ác trùng trùng điệp điệp của đảng CSVN. Do đó yếu tố hiểu biết lẫn nhau, thông cảm lẫn nhau, tin cậy lẫn nhau, hoàn toàn không thể có được. Cũng do đó khế ước hòa hợp hòa giải chỉ là một hư ước, một khế ước không có thực.
Chuẩn mực 4: Ðối tượng của khế ước.
Ðối tượng của khế ước mua bán xe hơi là chiếc xe hơi. Ðối tượng của khế ước giá thú là hành động tổ chức và phát triển đời sống hôn nhân. Vậy thì đối tượng của khế ước hòa hợp hòa giải là gì? Nghị quyết 36 trả lời: đối tượng kia chính là ý chí “xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai.” Thế nhưng tương lai đó là tương lai nào? Câu hỏi vừa nêu được giải đáp bằng bản tin sau đây:
Ngày 13 tháng 4 năm 2004, từ Hà Nội hãng thông tấn Reuters loan tin: Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế IMF đã chính thức loan báo ngưng toàn bộ chương trình cho VN vay hàng trăm triệu Mỹ kim nhằm thực hiện dự án Hỗ Trợ Phát Triển và Xóa Ðói Giảm Nghèo (PRGF). Quyết định vừa kể của IMF là hậu quả của sự việc CSVN từ chối thi hành các thủ tục kiểm toán cần thiết đối với những tài khoản do IMF chi viện. Mặt khác, nhân dịp này, ông Joseph Tan, một chuyên gia kinh tế làm việc tại văn phòng IMF Singapore nhấn mạnh: “Nếu VN muốn gia nhập tổ chức Kinh Tế Thế Giới (WTO) thì VN phải có chính sách tài chánh trong sáng hơn”.
Tin tức về việc CSVN bác bỏ đề nghị kiểm toán tài chánh của cơ quan IMF cộng với lời kêu gọi CSVN hãy minh bạch hơn trên hồ sơ ngân sách quốc gia đã dẫn tới sự minh xác dứt khoát rằng: đối với CSVN thà từ chối hàng trăm triệu – và trong tương lai – có thể hàng tỉ Mỹ kim dành cho chương trình xóa đói giảm nghèo, còn hơn phải tiết lộ điều mà CSVN gọi là bí mật tài chánh của quốc gia. Bí mật kia là bí mật gì? Bất kỳ băng đảng Mafia nào cũng có bí mật tài chánh. Khi Mafia CSVN cướp chính quyền thì bí mật tài chánh Mafia được nâng cấp thành “bí mật quốc gia”. Bí mật quốc gia kia được diễn tả như sau: tại VN ngày nay có hai cơ chế sống đế vương trên đời sống cùng khổ của nhân dân. Một là đảng lãnh đạo, hai là nhà nước quản lý.Trên bang giao quốc tế, do nhu cầu kinh tế, chính trị nhất thời, xã hội quốc tế nhiều khi cần phải nhắm mắt trước tính chất phi chính thống của một số nhà cầm quyền. Ðối với xã hội quốc tế: xã hội VN chỉ có thể có hai thành phần, đó là nội các chính phủ CSVN (dầu là chính phủ phi chính thống) và quần chúng VN. Quốc tế không thể hình dung được sự thể trên đầu của nội các CSVN còn có đảng lãnh đạo và đảng này có toàn quyền ăn xài phung phí tiền bạc rút ra từ ngân sách quốc gia. Ðây là một hiện tượng kỳ quái trong thế giới tài chánh. Từ nhiều thập niên qua, nhân danh khẩu hiệu “đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý”, đảng CSVN đã ngang nhiên sử dụng ngân quỹ quốc gia để trả bổng lộc cho đảng viên và nhất là để điều hành guồng máy đảng gồm trên dưới hai triệu đảng viên. Hành động như vừa kể, đảng CSVN đã phạm tội ác biển thủ công quỹ. Tội ác này được ghi nhận thông qua hai yếu tố cấu thành tội phạm.
_ Yếu tố 1: đảng CSVN đã sử dụng gian mưu để đoạt thủ tài sản của quốc gia. Thông thường gian mưu có thể là giấy tờ giả hay lời khai man. Gian mưu trong vụ án biển thủ công quỹ của đảng CSVN là đảng này đã sử dụng nhãn hiệu “bí mật tài chánh quốc gia” để che dấu mọi loại giấy tờ có liên hệ đến tội biển thủ công quỹ.
_ Yếu tố 2: có sự thịêt hại đối với ngân quỹ quốc gia. Sự thể này mọi người đều biết, cả thế giới đều biết. Nguồn tiền nào đã giúp cho đảng viên CS, đặc biệt là cấp lãnh đạo đảng từ trung ương đến địa phương có một đời sống cực kỳ đế vương? Nguồn tiền đó làngân quỹ quốc gia. Nguồn tiền nào đã giúp cho đảng CSVN có thể điều hành công tác đảng từ quốc nội ra tới quốc ngoại? Nguồn tiền đó là ngân quỹ quốc gia. Qua hai điều vừa kể, chúng ta hình dung được mức độ thịêt hại to lớn của ngân quỹ quốc gia.
Ðể dấu diếm tội ác biển thủ công quỹ, CSVN không còn chọn lựa nào khác hơn là ngăn cản mọi cuộc kiểm toán tài chánh của IMF. Chọn lựa này khẳng định mạnh mẽ rằng đối với CSVN, che đậy hồ sơ biển thủ công quỹ là mục đích tối thượng, xóa đói giảm nghèo chỉ là khẩu hiệu tuyên truyền trống rỗng. Câu chuyện IMF chỉ là một trong vô số câu chuyện tương tự có nội dung tố cáo : CS bao giờ cũng xem quyền lãnh đạo của đảng là tối thượng , quyền lợi dân tộc chỉ là chiêu bài. Do đó, đôi tượng của khế ước hòa hợp hòa giải được nghị quyết 36 gọi là “hướng về tương lai” cần được hiểu: tương lai ở đây là tương lai của CSVN chứ không là tương lai của dân tộc VN. Nhu vậy, đứng về mặt đối tượng của khế ước, lời đề nghị hòa hợp hòa giải không thể được chấp nhận.
Do ác ý bóp méo sự thực, từ lâu CSVN và tay sai đã cố gắng gieo vào dư luận ý kiến rằng những người từ chối hòa hợp hòa giải với CS là những người mang nặng trên vai khối thù hận từ trong quá khứ và rằng thù hận bao giờ cũng là cội nguồn của những quyết định không khôn ngoan, không phù hợp với quyền lợi dân tộc. Thế nhưng, công việc khảo sát bốn chuẩn mực của khế ước hòa hợp hòa giải đã chứng minh rằng người VN bác khước đề nghị hòa hợp hòa giải với CS không vì thù hận mà chỉ vì đề nghị đó ẩn chứa bốn điều bất hợp lý:
- Một là CSVN không có tư cách một chính quyền chính thống để ký khế ước với nhân dân.
_ Hai là người dân không có tự do tinh thần để đưa ra một chọn lựa thuận hay k hông thuận ký kết khế ước hoà hợp hòa giải.
_ Ba là khế ước hòa hợp hòa giải thiếu hẳn tính chất tín dụng.
_ Bốn là đối tượng mà khế ước hòa hợp hòa giải nhằm phục vụ là đảng CSVN chứ không phải là nhân dân VN.
Bên cạnh bốn sự kiện bất hợp lý kia, chúng ta đừng quên rằng dưới chế độ tự do dân chủ thực sự, người dân chỉ có một trong hai chọn lựa:
_ Hoặc là dồn phiếu cho nhà cầm quyền thuận ý dân.
_ Hoặc là sử dụng lá phiếu để truất quyền nhà cầm quyền nghịch ý dân.
Giữa hai cái “hoặc là” vừa nói, chế độ tự do dân chủ không hề có chỗ đứng cho nhóm chữ hòa hợp hòa giải. Chế độ tự do dân chủ chỉ có thể được qui định bởi lá phiếu của người dân. Chế độ tự do dân chủ không thể ra đời nhờ vào mỹ từ pháp hòa hợp hòa giải, một loại thuật ngữ mơ hồ rất dễ biến thành cạm bẩy chính trị. Trong hiện tình Việt Nam, hòa hợp hòa giải rõ ràng là chíêc bánh vẽ của chế độ độc tài ở vào buổi chợ chiều. Không còn chần chờ gì nữa, tất cả người VN yêu nước hãy dứt khoát ném chiếc bánh vẽ kiavào hố rác của những âm phản dân , hại nước . Ðó là câu trả lời nghiêm khắc nhất và chính xác nhất dành cho đề nghị hòa hợp hòa giải của bộ Chính Trị CSVN, tác giả nghị quyết 36.
Ðỗ Thái Nhiên
No comments:
Post a Comment